Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của chúng ta đã hoàn thành thấm thoát gần 37 năm. Nhiều nhà nghiên cứu, nhà sử học, nhà văn, nhà thơ – không chỉ trong nước mà cả bạn bè trên thế giới cũng đã viết, đã nói về sức mạnh thần kỳ của quân đội ta. Nhưng mấy ai làm rõ được bản chất của đội quân anh hùng bách chiến bách thắng - mà rất đỗi hiền lành! Mấy ai nói được hết về những con người rất lính mà cũng rất dân của anh bộ đội Cụ Hồ! Họ là những người “chẳng làm đau một chiếc lá trên cành” - và cũng chính những con người ấy - “mạnh hơn tất cả đạn bom, làm run sợ cả Lầu Năm góc”!
Vào chiều ngày 22-12-1944, giữa trùng trùng điệp điệp núi rừng Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân - được thành lập. Chỉ có 31 nam và 3 nữ với 2 súng ngắn, 17 súng trường và 14 súng kíp - 2 ngày sau đã tiêu diệt được 2 đồn địch! Đó là chiến công đầu tiên – Chúng ta thử hình dung: 2 ngày với đội quân 34 người được tuyển lựa từ các đội du kích, từ các trung đội cứu quốc quân ở Cao - Bắc - Lạng làm sao có thể đánh úp được 2 đồn giặc! 2 ngày chưa đủ để sắp hàng ngang hàng dọc! 2 ngày chưa đủ để nhớ mặt nhớ tên! Thế mà đã làm nên chiến thắng! Đúng là, không một trở lực nào ngăn chặn được lòng khát khao đánh được giặc ngoại xâm, giải phóng đất nước theo tiếng gọi của Đảng, của Bác Hồ, của hồn thiêng sông núi. Quả thực như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói: “Đây là cả một đoàn quân gang thép, rắn chắc, không sức mạnh nào khuất phục nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù”.
Lực lượng chủ lực đầu tiên ấy, đã lớn lên không ngừng để rồi 8 tháng sau cùng với lực lượng địa phương, du kích và toàn dân làm nên Cách mạng tháng Tám thành công rực rỡ.
Cứ qua mỗi cuộc chiến đấu, cứ qua mỗi tuần, mỗi tháng, sức mạnh của quân đội lại được nhân lên. Từ những gươm, giáo, lưỡi lê, mã tấu, tầm vông vạt nhọn cũng đã chiến đấu với súng đạn của kẻ thù. Quân ta biết lấy vũ khí của giặc để đánh giặc - chưa đủ - còn biết chế tạo những binh khí để đánh giặc. Để rồi 10 năm sau với 5 đại đoàn chủ lực có cả trọng pháo phòng không - sau 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng, quân đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm mạnh nhất của giặc ở Điện Biên Phủ, đập tan ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc quân Pháp xâm lược phải rút khỏi đất nước ta, mở ra kỷ nguyên giải phóng dân tộc và mở đầu cho việc chấm dứt chủ nghĩa thực dân cũ trên cả hành tinh chúng ta.
Cũng những người lính đầu trần, chân đất ấy! Những người lính mà hạt muối còn cắn làm đôi, củ khoai sẻ nửa, chuyền cho nhau từng hơi thuốc, đầu gối bên đầu, đêm đắp chung chăn thành đôi tri kỷ! Những người lính mà mới hôm nào còn là những chàng thư sinh ăn chưa no, lo chưa tới; còn là những chàng trai vác cày trên đồng ruộng - đã trở thành những chiến sĩ hiên ngang cầm súng chống quân thù. Họ đã chấp nhận cuộc đụng độ mới - phải chiến đấu với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở miền Nam.
Một cuộc chiến đấu mà ta không thể so sánh với đối phương bất kỳ phương diện nào - ngoại trừ lòng yêu nước, mong muốn giải phóng quê hương thống nhất nước nhà và sự chịu đựng hy sinh gian khổ. Nhưng rồi sức mạnh của dân tộc lại vượt lên, lớp lớp người lại xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước; lớp lớp người lại hăng hái lên đường đi giải phóng quê hương - thấm nhuần chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước không chịu làm nô lệ”, “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập”.
Để rồi, mùa xuân năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và cùng với 55 ngày đêm tiến công và nổi dậy, đất nước hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối.
Sau khi đánh thắng hai đế quốc hùng mạnh nhất hành tinh, ai ai cũng nghĩ rằng: Đã qua rồi những ngày mưa bom bão đạn, đã qua rồi khói lửa chiến tranh. Nhưng rồi, quân đội ta lại thêm nhiệm vụ mới - đó là đánh bọn diệt chủng và bọn bành trướng bá quyền. Và, quân đội ta cũng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ! Giữ cho bầu trời, biên giới, hải đảo, giữ cho em thơ được cắp sách đến trường, cho mọi người hăng say lao động phát triển đất nước, cho các hang cùng ngõ tận mãi vang lên tiếng cười. Đúng là, đẹp biết bao anh Bộ đội Cụ Hồ!
Lịch sử dân tộc ta từ ngày dựng nước đã trải qua biết bao lần chiến đấu và cũng biết bao lần chiến thắng oanh liệt. Vẻ vang nhất, rực rỡ nhất, kẻ thù khiếp sợ nhất vẫn là chiến thắng của Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn trên sông Bạch Đằng. Rồi 500 năm sau là trận đại phá quân Thanh của vua Quang Trung.
Nếu Bạch Đằng giang chặn đứng hướng về phương Nam của đội quân từng có mặt hết châu Á và châu Âu của Nguyên Mông thì Điện Biên Phủ đã chấm dứt chính sách xâm lược của thực dân Pháp ở nước ta.
Nếu vua Quang Trung đại phá quân Thanh lấy lại Thăng Long, dẹp bỏ vua tôi nhà Lê từng “cõng rắn cắn gà nhà” thì chiến dịch Hồ Chí Minh đã quét sạch quân xâm lược, đập tan chế độ bù nhìn, chế độ của bọn “rước voi về dày mả tổ”.
Phải chăng, lịch sử đã chọn những anh bộ đội Cụ Hồ để lặp lại những kỳ tích vẻ vang nhất mà mấy ngàn năm lịch sử dân tộc đã viết nên. Có thể nói từ rừng xanh đến biển cả, từ bưng biền đến thị thành không nơi nào không có dấu chân anh bộ đội, không có tháng năm nào không có tin chiến thắng, mỗi con đường, mỗi góc phố, mỗi buôn làng của quê hương đều có thể ghi vào sử sách như một chiến công.
Khi đất nước thanh bình, khi hoàn thành nhiệm vụ binh nghiệp, người lính trở về với đời thường. Anh bộ đội Cụ Hồ ngày ấy - người cựu chiến binh hôm nay, vẫn mãi hát khúc quân hành và tiếp tục hành binh vào giai đoạn cách mạng mới, vào nhiệm vụ mới.
Với bản chất của mình, anh bộ đội Cụ Hồ lại lao vào cuộc chiến đấu mới, trên trận tuyến mới, ý chí quyết thắng, bản lĩnh và tinh thần đồng đội lại tỏa sáng. Năm tháng sẽ đi qua, nhưng những hình ảnh đẹp của Bộ đội Cụ Hồ dầm mình dưới nước, tạo thành hàng rào sống để cứu đê trên sông Đuống năm nào vẫn còn in đậm trong tâm trí của nhân dân. Đồng bào miền Trung vẫn thường nhắc đến nghĩa tình cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ. Những mùa lũ ấy, nếu không có sự băng mình qua lũ dữ, giúp sức của quân đội thì hàng ngàn người dân chắc chắn sẽ gặp hiểm nguy. Bà con đồng bằng Nam bộ làm sao quên được hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ đã có mặt kịp thời giúp dân thoát khỏi bàn tay của thủy thần. Nước rút rồi, Anh lại đến giúp dân phục hồi sản xuất, phòng trừ dịch bệnh, xây nhà, sửa cửa giúp dân.
Anh bộ đội Cụ Hồ lại đem hết sức mình nguyện làm tất cả những gì có thể làm được để đền ơn đáp nghĩa, để tri ân con người, tri ân những vùng đất mà anh đã đi qua. Rồi lại đi, để tìm đồng đội của mình còn nằm lại đâu đó ở các chiến trường xưa.
Danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ - danh hiệu mà nhân dân yêu mến tôn vinh; phẩm chất bộ đội Cụ Hồ là do Bác Hồ và Đảng ta giáo dục, rèn luyện. Ai đã từng một thời là bộ đội Cụ Hồ đều có được trong mình một phẩm chất của Bác Hồ - phẩm chất đó luôn được tỏa sáng và được mọi người yêu mến. Những anh bộ đội Cụ Hồ năm xưa trở về với nhiệm vụ mới dù ở cương vị nào, tất cả luôn thể hiện sự gương mẫu, chân thành, sự mẫu mực trong cuộc sống công tác, sự chấp hành ý thức tổ chức kỷ luật, sự mạnh mẽ trong đấu tranh xây dựng nội bộ, luôn thể hiện sự thấy đúng biết bảo vệ, thấy sai biết đấu tranh. Đặc biệt thể hiện quan điểm rõ ràng trong việc đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực của xã hội. Và nổi bật hơn cả là ở họ nổi lên sự trung thực, lòng trung thành với Đảng với Tổ quốc, tình đồng chí, đồng đội, sự quan tâm giúp đỡ nhau, sự khiêm tốn và ý thức tổ chức kỷ luật rất tốt. Nếu ai đó không có những yếu tố đó thì trong họ đã mất dần đi phẩm chất anh bộ đội Cụ Hồ.
Ôn lại truyền thống, chúng ta thấy tự hào về sự lớn mạnh không ngừng của quân đội nhân dân anh hùng và những thành quả đạt gần 70 năm qua. Chúng ta mãi tự hào về quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng! Tự hào về một quân đội mà người thầy là vị Cha già kính yêu, người anh hùng giải phóng dân tộc, là Danh nhân văn hóa thế giới. Tự hào về một quân đội mà người Anh Cả được Viện Hàn lâm quân sự Hoàng gia Anh chọn là một trong 10 vị tướng tài giỏi nhất hành tinh từ thời cổ đại đến nay.
Giờ đây, được sống trong thanh bình, trong lòng mỗi chúng ta cũng không thể nào quên những đồng đội, đồng chí, đồng bào đã ngã xuống, những người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp vẻ vang này.
Quên sao được! Không bồi hồi xúc động sao được! Khi mà mỗi lần chúng ta nghĩ đến, mỗi lần được xem những thước phim chiến trường, mỗi lần được đến những nơi các đồng chí yên nghỉ, chúng ta lại nhớ đến đội ngũ điệp trùng của các quân đoàn ra trận ngày ấy, có biết bao đồng chí đã vĩnh viễn nằm lại nơi núi thẳm rừng sâu. Và còn biết bao đồng chí đến nay vẫn chưa về được với gia đình, với làng quê, với mẹ với em!
Họ, những chàng trai cô gái còn rất trẻ. Khi đọc những dòng nhật ký của họ, ta lại thấy các anh chị ngoài lý tưởng sống rất đẹp, còn có biết bao mơ ước trong cuộc sống đời thường. Khi đi vào lòng đất họ vẫn còn “con trai”, “con gái”, có khi chưa một lần biết đến nụ hôn đầu đời. Những trang nhật ký của các anh làm ta vô cùng xúc động: có anh đã mơ ước một lần được vuốt tóc, nắm tay người con gái anh yêu! Thế nhưng, trang nhật ký viết chưa được qua ngày, anh phải đi vào trận đánh và mãi mãi không về! Nên mơ ước đó chỉ là ước mơ!
Để những con người ấy yên lòng an nghỉ, chúng ta mãi mãi nhớ ơn và nhất định không làm điều gì phụ lòng sự hy sinh to lớn đó.
Những người lính - như nhà thơ Tố Hữu đã ngợi ca: “Không tự ngắm mình/ Anh chẳng hay đâu hỡi chàng dũng sĩ/ Cả năm châu chân lý đang nhìn theo”- vẫn là anh bộ đội Cụ Hồ hôm nay, vẫn mãi mãi trong lòng chúng ta bài ca người lính, mãi mãi trong lòng chúng ta hát vang khúc quân hành!.
THÂN THỊ THƯ Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM