* Chủ đề Đại hội XI của Đảng
Chủ đề đại hội Đảng là tư tưởng chỉ đạo định hướng hoạt động của Đảng, xác định mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ 5 năm của đại hội. Chủ đề Đại hội XI của Đảng cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị, là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Chủ đề này gồm bốn thành tố, vừa kế thừa, vừa phát triển chủ đề của Đại hội X, vừa thể hiện tập trung, cô đọng nhất mục tiêu, nhiệm vụ, động lực của cách mạng nước ta trong những năm tới.
- Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng: là thành tố đầu tiên, có ý nghĩa hết sức quan trọng, đáp ứng yêu cầu cấp bách hiện nay. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định bài học “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Đại hội X của Đảng xác định: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, chất lượng đội ngũ đảng viên đã đạt được một số kết quả; chú trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Tuy nhiên, còn không ít tổ chức đảng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Trong những năm tới, cơ hội và thách thức đan xen nhau, công cuộc đổi mới đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết. Cần tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, quyết tâm tạo ra sự chuyển biến thật sự rõ rệt trong những vấn đề đã nêu trên nói riêng và công tác xây dựng Đảng nói chung.
- Tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc: Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định bài học kinh nghiệm lớn “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” và bài học về đại đoàn kết. Đại hội X xác định “phát huy sức mạnh toàn dân tộc”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng chưa đầy đủ và vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Trong những năm tới, cần phải tiếp tục phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước; giải phóng mọi tiềm năng, phát huy mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế; phát huy sức mạnh của truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc và ý chí kiên cường của người Việt Nam.
- Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới: Đại hội X đã chỉ rõ yêu cầu “đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới” là đổi mới một cách mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp Trung ương đến hoạt động của địa phương và cơ sở. Công cuộc đổi mới 25 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, nhưng cũng đòi hỏi phải đổi mới toàn diện hơn nữa. Vì thế, trong 5 năm tới, phải tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.
- Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại: là thành tố chỉ rõ mục tiêu trực tiếp của Đại hội XI. Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Các Đại hội VIII, IX, X và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 nhất quán xác định mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
* Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đề ra “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Nghị quyết Đại hội X bổ sung thành “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội XI của Đảng phát triển quan điểm này lên một bước mới là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, nghĩa là không chỉ hội nhập kinh tế quốc tế mà còn hội nhập cả ở các lĩnh vực khác.
Thời đại ngày nay là thời đại cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Toàn cầu hóa diễn ra trên thế giới bắt đầu và diễn ra mạnh mẽ từ toàn cầu hóa kinh tế. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự ra đời và phát triển của các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia ở các nước kinh tế phát triển đã làm hình thành thị trường toàn cầu (cả đối với các yếu tố sản xuất và sản phẩm), các mạng sản xuất và phân phối toàn cầu; tạo ra sự vận động của các nguồn vốn, lao động và sản phẩm trên phạm vi toàn cầu; thu hút sự tham gia của các quốc gia trên phạm vi toàn cầu vào các liên kết kinh tế và hình thành ngày càng nhiều các thể chế kinh tế mang tính toàn cầu (IMF, WB, WTO…). Đó là quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Song, ngày nay, thế giới không chỉ diễn ra quá trình toàn cầu hóa kinh tế mà từ toàn cầu hóa kinh tế và cùng với toàn cầu hóa kinh tế, do yêu cầu cần phải phối hợp của các quốc gia để giải quyết các vấn đề toàn cầu như: khủng hoảng lương thực, năng lượng, đấu tranh với nạn nghèo đói, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, khủng bố quốc tế,… còn diễn ra quá trình toàn cầu hóa ở nhiều lĩnh vực khác: chính trị, văn hóa, khoa học và công nghệ… Vai trò của các thể chế toàn cầu như: Liên hợp quốc (UN), UNESCO, FAO, UNICEF, cùng với WTO, IMF, WB… ngày càng lớn, có tác động rất lớn tới hoạt động của các quốc gia.
Hội nhập quốc tế là sự tham gia của một số quốc gia vào quá trình toàn cầu hóa, bao gồm hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập quốc tế cả trên nhiều lĩnh vực khác. Hội nhập quốc tế khác với phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế (hợp tác kinh tế, hợp tác văn hóa, hợp tác về quốc phòng, an ninh…) ở chỗ khi hai hay nhiều quốc gia hợp tác trong một lĩnh vực nào đó (hay trong nhiều lĩnh vực) thì mỗi nước đều có luật pháp, cơ chế, chính sách, các quy định riêng của mình về lĩnh vực này. Quan hệ hợp tác giữa các nước không ảnh hưởng hay làm thay đổi các quy định bên trong của mỗi nước. Còn khi hội nhập quốc tế trong một lĩnh vực nào (hay một số lĩnh vực), thì nước đó không chỉ phát triển quan hệ hợp tác với các nước trong lĩnh vực đó mà các luật lệ, quy định của nước này về lĩnh vực hội nhập cũng phải điều chỉnh sao cho phù hợp với quy định chung theo cam kết khi hội nhập. Như vậy, hội nhập quốc tế là giai đoạn phát triển cao hơn về chất so với việc phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế.
Chủ động hội nhập quốc tế có nghĩa là hội nhập ở lĩnh vực nào, đến mức độ nào, theo lộ trình dài, ngắn thế nào là do ta chủ động lựa chọn phù hợp với yêu cầu, mục tiêu, chiến lược và trình độ phát triển của đất nước. Cụ thể như nước ta, Đảng chủ trương hội nhập quốc tế nhưng xác định trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó cũng lựa chọn lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu, mở cửa nền kinh tế, cho phạm vi hoạt động của doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam... phải phù hợp với mức độ chuẩn bị bên trong của ta để bảo vệ lợi ích của đất nước; không chủ quan, nóng vội, nhưng cũng không được quá chậm, bất lợi cho đất nước.
Tích cực hội nhập quốc tế có nghĩa là phải có sự chuẩn bị tích cực, không thụ động, chờ đợi, để tạo ra những tiền đề, điều kiện thuận lợi cho đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế của đất nước, để quá trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ, đem lại hiệu quả cao cho đất nước. Do đó, tích cực hội nhập đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ quy định của các thể chế quốc tế, kinh nghiệm hội nhập của các nước trên thế giới, xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch, lộ trình hội nhập ở các lĩnh vực, các cấp, các ngành phù hợp, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các lĩnh vực trong nước, đào tạo, chuẩn bị đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu hội nhập…
-------------------------------------------
(Trích từ Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng)