Mỗi mùa xuân đến, tôi thường nhớ về những kỷ niệm sâu sắc trong đời mình. Dưới đây là một đoạn hồi ức về cuộc đấu tranh cực kỳ gian khổ trong nhà tù Côn Đảo những năm 1956 - 1959, nói lên tinh thần bất khuất và tình đồng chí thiêng liêng giữa những bạn tù cộng sản trong những giờ phút mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc.
1. Cuối năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm đưa chúng tôi từ trại tù chính trị Phú Quốc về Côn Đảo. Côn Đảo thuở ấy địch chia tù chính trị ra thành 2 trại: Trại 1 là trại chống chào cờ, không học tố cộng và trại 2 là trại buộc phải chào cờ, học tập tố cộng. Đối với trại 1, chúng tôi thường xuyên bị cấm cố, bị bức bách tư tưởng bằng nhiều cách: bớt phần ăn, chỉ cho ăn gạo mục, khô mục, mắm thúi, không cho tắm rửa, không phát thuốc trị bệnh cho người đau yếu… Vì thế sức khỏe chúng tôi ngày càng suy nhược, đau yếu với đủ thứ bệnh, nguy hiểm nhất là bệnh kiết lỵ, thương hàn, đen chân chảy máu, sưng nướu răng... Bức bách quá, chúng tôi phải đấu tranh hô la, phản đối chế độ lao tù, bãi thực, tuyệt thực... Mỗi lần như thế, chúng cho bọn ác ôn xông vào phòng đánh đập, lôi từng tốp anh em ra, nhốt xà lim, chuồng cọp. Anh em kiệt sức, chết ngày càng nhiều. Phong trào đấu tranh càng lan rộng ra toàn Trại 1 với cả ngàn người, lôi kéo cả anh em Trại 2. Phần đông anh em Trại 2 không phải là tự nguyện chào cờ ngụy, học tập tố cộng mà do có từng chuyến tàu, chúng đưa thẳng anh em vô Trại 2. Không rõ tình hình ở đảo, anh em bị động, bị bọn cò mồi dẫn dắt buộc phải chào cờ và ngồi nghe bọn chiêu hồi tố cộng. Tất nhiên cũng có số anh em chịu không nổi sự áp bức cùng cực của địch nên tạm thời khuất phục qua Trại 2.
Ở Trại 1 có một khám phụ nữ trên cả trăm người nhưng cũng lần lượt bị phân hóa; đến năm 1958 chỉ còn không tới 40 chị, trong đó có một số chị em từ chuyến tàu Phú Quốc về Côn Đảo một lượt với tôi.
Phong trào đấu tranh chống chế độ lao tù man rợ ở Trại 1 ngày càng ảnh hưởng đến các Trại tù thường phạm và gia đình binh sĩ ở Trại lính bên hông Trại 1. Có những cuộc hò la phản đối chế độ lao tù và nhất là ban đêm từ một phòng đến nhiều phòng vang lên tiếng la: “Sếp ơi! Phòng 6 có người chết”! “Sếp ơi! Phòng 8 có người tắt thở - yêu cầu mở cửa đưa ra”!
Tiếng hò la vang động giữa đêm khuya đã rúng động cả Trung tâm Côn Đảo, gây xao động đến vợ con binh sĩ. Sáng ra, nhiều tốp gia đình binh sĩ kéo đến cổng Trại, yêu cầu sĩ quan và binh lính đối xử tử tế và cứu giúp anh em tù đáng thương.
2. Phong trào đấu tranh của Trại 1 cũng đã từng lúc buộc bọn quản đốc nhà tù phải lùi bước, cho anh em ra ngoài hành lang vài giờ vào buổi sáng để đổi gió, hóng nắng, tắm rửa, làm vệ sinh khám, ăn cơm bên ngoài... Nhưng chỉ vài tuần sau là chúng siết lại như trước; thậm chí còn lôi từng tốp 4 - 10 anh em ra xà lim tra tấn, đánh đập để buộc anh em qua Trại 2. Có anh em chết ngay trong những cuộc đánh đập vô cớ đó.
Riêng tôi, sức khỏe yếu nên liên tục bị nhiều thứ bệnh từ sưng nướu răng đến đen chân chảy máu rồi đến kiết lỵ. Kiết lỵ là bệnh đáng sợ nhất. Lúc đó tôi đang nằm ở phòng 8. Phòng này có 6 anh em, trong đó có tôi bị kiết lỵ, được xếp nằm ở dãy bệ gần cầu tiêu. 6 người chờ chết nằm trần truồng, trên mình là những giẻ rách, dưới có mảnh nilon lót cho máu, đờm và nước vàng ri rỉ chảy ra, ruồi bu kín cả. Suốt cả tuần 6 anh em đều nhịn ăn, nằm chờ chết...
Một buổi sáng, ngoài hành lang sùm sụp gót giày của bọn cai ngục. Cửa sắt bật mở. Một tốp 4 tên lính bước vào, dẹp đường, giành lối đi cho tên thiếu tá Tỉnh trưởng Côn Sơn và tên đại úy quản đốc Trại tù cùng mấy tên sĩ quan bước vào. Chúng bịt mũi vì hôi thối, đi thẳng vào góc chỗ chúng tôi đang nằm. Bọn tôi trừng mắt nhìn chúng. Tên thiếu tá Tỉnh trưởng và tên y tá đến bên ông già chờ chết nằm ở phía ngoài. Tên y tá lấy trong bọc 1 mũi thuốc, bẻ ống thuốc cho vào ống tiêm. Tên thiếu tá tằng hắng lấy giọng rồi nói: “Này ông già? Đây là mũi thuốc Ê-mê-tin trị bệnh kiết tài tình. Nếu ông gật đầu, chịu qua Trại 2 thì mũi thuốc này sẽ cứu sống ông! Ông suy nghĩ đi!”.
Ông già lắc đầu. Tên thiếu tá “hực” một tiếng lớn, đập vào vai tên y tá. Tên y tá xịt mũi thuốc vào tường. Quay qua anh em tôi, tên thiếu tá hỏi: “Còn các anh tính sao?”. Tất cả 5 anh em chúng tôi đồng loạt lắc đầu. Hắn bực tức: “Kệ mẹ chúng bay, cho chết hết!”. Bọn chúng đi ra, cửa đóng rầm lại. Toàn phòng cười vang.
3. Ba ngày sau, vào một buổi tối, 6 anh em tôi đang nằm thoi thóp thì thấy anh Thừa (bạn tù người Quảng Ngãi) từ cầu tiêu chạy ra. Vừa vận quần, anh vừa reo lên: “Sống rồi Quang ơi! Anh em ơi!”. Anh bước tới chỗ tôi nằm, giơ lên một túi nhái hổn hển nói: “Tao đang ngồi tiêu trong cầu thì một vật gì rơi xuống lưng tao. Tao lượm lên thì là cái túi nhái này đây. Trong có mảnh giấy đề tên mầy”. Anh em lục ra thì quả có miếng giấy nhỏ đề: “Kính gởi Anh Quang”, cùng 7 viên thuốc Ê-mê-tin cho 6 anh em tôi. Ngay sáng hôm sau, bệnh tình anh em đều thuyên giảm. Uống thêm vitamin, anh em đều ngồi lên được.
Ôi! Thật là viên thuốc thần kỳ “cải tử hoàn sinh”. Bởi ngoài tác dụng đặc trị của thuốc, nó còn mang sức mạnh thiêng liêng của tình đồng chí thương yêu nhau trong những giờ phút sinh tử của đời người. Anh em đoán biết đó là những viên thuộc của các đồng chí nữ gởi đến. Có người còn băn khoăn không biết vì sao các chị biết là anh Quang đang đau nằm ở phòng 8 mà gởi thuốc. Anh em nhớ ra là cách nay hơn 20 ngày, vào buổi trưa, bọn thầy chú cai ngục đều đi nghỉ trưa nên bên ngoài thưa vắng, có một anh lính vào mở cửa phòng, đứng hỏi: “Trong nầy có anh nào tên Quang, ở Phú Quốc về đây không?”. May là lúc ấy tôi đang ngồi gần cửa nên trả lời ngay: - “Có tôi đây”. Anh ngó qua lại bên ngoài rồi cười nói: “Ở dưới khám phụ nữ có một chị gởi gói này cho anh!”. Tôi cám ơn. Anh vội ra ngoài đóng cửa lại. Cũng may là thời gian ấy độ trên 1 tháng địch không xáo trộn phòng, nên các chị biết tôi còn đang ở phòng 8, và câu chuyện 3 ngày trước chắc anh lính này nói lại với các chị.
Mở gói quà bọc trong 1 tờ báo cũ là 2 cái quần cụt màu đen, đã cũ, có lẽ là cắt ra từ cái quần đùi của chị phụ nữ.
Tôi đoán và biết được chị phụ nữ ấy là ai trong số các chị ở Trại tù Phú Quốc về Côn Đảo một lượt với tôi hồi cuối năm 1956. Bởi ở Phú Quốc, tôi là Phó Bí thư chi bộ được chi ủy nhà tù phân công liên hệ với các đồng chí ở Tổ Đảng phụ nữ. Chính là nhờ người lính tốt đó mà các chị biết được anh em tôi bị kiết lỵ và nằm chờ chết, nên đã qua góp số tiền mà các chị đã cất dấu lâu ngày gởi cứu chúng tôi.
Ôi! Tình đồng chí thiêng liêng và thân thương biết bao!