Thứ Hai, ngày 15 tháng 12 năm 2025

Đảng bộ huyện Nhà Bè

Khi hệ thống chính trị cùng dân lo "việc nước"

Mới chỉ mấy năm trước đây thôi, nhiều người dân sống ở Nhà Bè vẫn thường xuyên “khát nước”. Thị trấn Nhà Bè và xã Phú Xuân có được hệ thống nước máy nhưng công suất thấp, không đủ dùng; còn các xã khác phải sử dụng nước sinh hoạt từ 13 trạm cấp nước giếng tập trung và bồn chứa theo chương trình hỗ trợ của thành phố. Một số người đầu tư giếng khoan nhưng rất tốn kém và không phải nơi nào cũng tìm được nước ngọt. Bà con nhiều nơi phải “đổi nước” ở xa với giá rất đắt. Tình hình đó khiến không chỉ người dân mà Đảng bộ, chính quyền huyện cũng rất bức xúc…

Từ quyết tâm của Huyện ủy…

Đồng chí Nguyễn Văn Trường, Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch UBND huyện Nhà Bè, nhớ lại: “Cuối năm 2010, Nhà máy nước BOO Thủ Đức đã phát nước, bổ sung nguồn nước cung cấp cho thành phố thì áp lực nước được tăng lên, đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân. Các tuyến đường chính ở thị trấn Nhà Bè và xã Phú Xuân cơ bản được phủ kín mạng lưới tuyến cung cấp nước, từ đây được đấu nối với những tuyến hẻm thuộc khu dân cư để cung cấp nước cho những hộ dân trong hẻm. Với các hẻm nhỏ, không thể lắp đặt hệ thống ống nước thì vận động nhân dân lắp đồng hồ tổng. Nhưng ở các xã Long Thới, Hiệp Phước, Phước Kiển, Nhơn Đức, bấy giờ đang thi công đường ống cấp nước của Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn (SAWACO) đến trung tâm xã. Do nhiều lý do, người dân ở các xã nông thôn chủ yếu sử dụng nước sinh hoạt từ các trạm cấp nước giếng tập trung và hệ thống bồn chứa”.

Bấy giờ, huyện cũng có nhiều biện pháp hỗ trợ người dân, như cung cấp nước từ 13 trạm bơm tập trung (nước giếng khoan), sử dụng xe bồn, xà lan vận chuyển nước và cấp cho các hộ dân chưa có đường ống nước tại 5 xã, bơm trực tiếp nước vào mạng lưới ống để tăng áp lực nước cho các hộ dân ở xã Phú Xuân và thị trấn Nhà Bè. Dù vậy, do địa bàn rộng, dân thưa, nỗ lực của huyện cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân; bà con ở nhiều nơi phải tích trữ nước mưa hoặc “đổi nước” từ các xe ba gác với giá 100.000đ/m3, thậm chí có người còn phải sử dụng một số nguồn nước không bảo đảm vệ sinh.

Trước tình hình đó, ngày 24-5-2011, Huyện ủy Nhà Bè đã ban hành Chương trình số 05-Ctr/HU về “phát triển hoàn thiện hệ thống cấp nước sinh hoạt khu dân cư hiện hữu trên địa bàn huyện Nhà Bè giai đoạn 2011 – 2015”. Chương trình hướng đến mục tiêu phủ kín mạng lưới cấp nước sinh hoạt trên địa bàn huyện, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân; thực hiện kết nối đồng bộ hệ thống cấp nước giữa các khu dân cư hiện hữu và các khu dân cư xây dựng mới… Chương trình cũng đặt mục tiêu hoàn thành việc vận động người dân lắp đặt đồng hồ tổng 100% tuyến hẻm nhánh trên địa bàn... Đây là một trong 3 chương trình trọng điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X nhiệm kỳ 2010 – 2015.

Thực hiện Chương trình của Huyện ủy, ngày 14-12-2011, UBND huyện Nhà Bè đã ban hành Kế hoạch 487/QĐ-UBND đề ra một số giải pháp chủ yếu, như phủ kín mạng lưới đường ống chính cấp 1 tại các tuyến đường chính trên địa bàn huyện; phát triển mạng lưới nước tại các tuyến hẻm trong khu dân cư hiện hữu; rà soát các điểm lắp đặt bồn nước, tăng cường chở xe bồn để phục vụ người dân; kết nối đồng bộ mạng lưới nước các khu dân cư phát triển mới…

… Đến sự vào cuộc của hệ thống chính trị

Nhu cầu nước sạch trên địa bàn huyện là rất lớn nên chủ trương này của huyện rất được lòng dân. Vì vậy, huyện có sự tập trung chỉ đạo rất chặt chẽ, sát sao để chủ trương được thực hiện đầy đủ, hiệu quả. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xây dựng nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch… thực hiện Chương trình và đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân hiểu và tham gia. Ban Thường vụ Huyện ủy thành lập bộ phận giám sát việc thực hiện Chương trình, do đồng chí Phó Bí thư Thường trực phụ trách, với lực lượng nòng cốt là Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy. Định kỳ 6 tháng, UBND huyện báo cáo tiến độ và kết quả thực hiện Chương trình với Ban Chấp hành Đảng bộ huyện; hàng tháng có báo cáo với Ban Thường vụ Huyện ủy. Thời gian đầu, Thường trực Huyện ủy chỉ đạo phải tổ chức giao ban hàng tuần, gồm phó chủ tịch UBND huyện phụ trách thực hiện Chương trình, lãnh đạo Phòng Quản lý đô thị, thường trực UBND các xã, thị trấn; sau đó thì giao ban hàng tháng. Từ đó, các khó khăn, vướng mắc, các vấn đề phát sinh đều được xử lý kịp thời. Chẳng hạn, vấn đề hiến đất và vật kiến trúc, hỗ trợ nhà đầu hẻm, cách thức xử lý hồ sơ, thái độ của cán bộ trong quá trình thực hiện… đều được kịp thời giải quyết.

Xuyên suốt quá trình thực hiện Chương trình đều có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. UBND huyện chỉ đạo UBND các xã tập hợp nguyện vọng của nhân dân, tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân hiến đất để lắp đặt đường ống, các khoản đóng góp… để từ đó tổ chức thực hiện đồng loạt. Khi thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, huyện chủ trương gắn kết chặt chẽ hai nội dung này: khi làm đường giao thông nông thôn thì lắp ống nước, nếu nơi nào chưa vận động được nhân dân hiến đất làm đường thì chưa lắp… Nhờ đó, hạn chế được việc đào đường, quá trình thực hiện đồng bộ nên nhanh chóng và hiệu quả.

Trong công tác tuyên truyền, vận động, nhận thức được tính cấp thiết của Chương trình cũng như nhu cầu chính đáng của người dân, luôn có sự tham gia tích cực của Mặt trận và các đoàn thể. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên luôn đi đầu trong các hoạt động tuyên truyền cũng như đóng góp, chấp hành các chủ trương chung. Suốt quá trình thực hiện Chương trình, không xảy ra trường hợp nào phải vận động nhiều lần hay cưỡng chế.

Đối với các cơ quan, đơn vị ngoài huyện, UBND huyện tích cực tranh thủ, tác động để tìm sự hỗ trợ, chia sẻ, phối hợp. Đồng chí Nguyễn Văn Hải, Phó phòng Quản lý đô thị huyện Nhà Bè, cho biết: “Huyện phối hợp với các đơn vị thuộc Sở Giao thông – Vận tải, Công ty CP Cấp nước Nhà Bè tập trung giải quyết các vướng mắc để tạo điều kiện lắp đặt ống nước qua các cây cầu trên địa bàn, như Rạch Đĩa 1, Long Kiển, Phước Lộc 1, Rạch Tôm, đưa nước về trung tâm các xã Hiệp Phước, Phước Lộc và Nhơn Đức trước Tết Nguyên đán năm 2012. Huyện cũng phối hợp với SAWACO lắp đặt ống cấp 2 trên đường Long Thới – Nhơn Đức, giúp tăng áp lực nước cho các xã Nhơn Đức, Phước Lộc…”.

Một số kinh nghiệm thực tiễn

Đến nay, toàn huyện đã phát triển mạng lưới ống nước 16/16 tuyến chính với tổng chiều dài 55,1km; mạng lưới cấp nước đã về đến trung tâm 7 xã, thị trấn. Đối với việc phát triển mạng lưới cấp nước trên các tuyến hẻm, đã thực hiện 176/186 tuyến với tổng chiều dài 41,7km; dự kiến đến cuối năm 2015 sẽ hoàn thành 100% số tuyến. Hiện 100% số hộ dân của huyện được sử dụng nước sạch (đầu nhiệm kỳ 2010 – 2015, toàn huyện chỉ có 5.200 đồng hồ nước/25.840 hộ dân, tỉ lệ 20,12%); trong đó, tổng số đồng hồ nước do Công ty CP Cấp nước Nhà Bè lắp đặt là 31.535/34.882 hộ dân (đồng hồ tại các chung cư và hộ riêng lẻ, đạt tỉ lệ 90,4%); số đồng hồ nước do Trung tâm Nước và Vệ sinh môi trường nông thôn lắp đặt là 2.579 (7,4%) và còn 768 hộ dân sử dụng nước sạch cấp bù bằng xe bồn (2,2%)(1).

Quá trình thực hiện việc cung cấp nước sạch cho người dân trên địa bàn huyện Nhà Bè, có thể rút ra một số kinh nghiệm thực tiễn:

Thứ nhất, có quyết tâm chính trị cao của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy, tạo sự thống nhất về nhận thức và sự tham gia tích cực của toàn hệ thống chính trị. Xuất phát từ mong muốn đáp ứng nhu cầu của nhân dân, cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc và duy trì thường xuyên sự lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền, vận động. Nhận thức sâu sắc nhiệm vụ này, nên trong quá trình bầu cử HĐND xã, thị trấn, các ứng cử viên đều lấy việc cung cấp nước sạch cho người dân làm điểm nhấn trong chương trình hành động của mình.

Thứ hai, có cách tổ chức thực hiện phù hợp. Các biện pháp giao ban, báo cáo định kỳ, việc kiểm tra, giám sát thường xuyên… đều nhằm khắc phục kịp thời những vướng mắc, khó khăn, sai sót, nhất là chấn chỉnh cung cách, thái độ của một số cán bộ công chức. Quá trình thực hiện phải bảo đảm các quy định nhưng không được cứng nhắc mà phải uyển chuyển, linh hoạt sao cho đạt hiệu quả cao nhất.

Thứ ba, có sự phối hợp hợp lý giữa các chương trình, giữa các cơ quan, đơn vị trong và ngoài huyện. Sự phối hợp nhằm tăng tính hiệu quả của hoạt động, giảm chi phí và phiền hà đối với nhân dân; chẳng hạn, kết hợp tốt giữa việc làm đường giao thông nông thôn và lắp đặt hệ thống ống nước giúp tiết kiệm chi phí, hạn chế ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân; hay sự phối hợp với các đơn vị trực thuộc Sở Giao thông – Vận tải giúp tháo gỡ các vướng mắc trong việc đào đường, lắp đường ống nước đi qua các cây cầu; sự phối hợp với SAWACO giúp giải quyết hồ sơ nhanh, đẩy mạnh việc đầu tư mạng lưới ống nước đến khu vực dân cư còn thưa…

Thứ tư, kịp thời sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, biểu dương, khen thưởng các tập thể và cá nhân tham gia tốt. Quá trình thực hiện phát sinh nhiều vấn đề cần được tổ chức rút kinh nghiệm kịp thời nhằm phát huy cách làm hay, khắc phục cách làm chưa phù hợp hoặc các hạn chế, thiếu sót. Song song đó, việc biểu dương các tập thể, cá nhân thực hiện tốt có ý nghĩa động viên các mô hình tích cực, từ đó nhân rộng trên địa bàn, giúp Chương trình được thực hiện tốt hơn.

Một trong những chỉ tiêu được Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ X nhiệm kỳ 2015 – 2020 đề ra là đến cuối 2020, đảm bảo nước sạch cho 100% hộ dân. Nhưng ở Nhà Bè, đến đầu năm 2015, chỉ tiêu này đã được hoàn thành. Đó là sự nỗ lực rất lớn của Đảng bộ, chính quyền và hệ thống chính trị toàn huyện. Có thể coi đây là một điểm son trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện trong nhiệm kỳ 2010 – 2015 vừa qua.

-------------------------------------

(1) Theo UBND huyện cho biết, khu vực cấp bù chủ yếu tập trung tại ấp 3, ấp 4 xã Hiệp Phước (do cầu Kênh Lộ chưa hoàn thành), trục đường liên ấp 2-3, trục đường liên xã Long Thới – Nhơn Đức, Nhơn Đức – Phước Lộc (do dân cư sống không tập trung). Hiện UBND huyện đã xây dựng phương án vận chuyển, cung cấp nước sạch bằng ô tô, ghe… để cấp nước cho các bồn tại các vị trí chưa kết nối với nguồn nước. Tổng lượng nước cấp bù khoảng 233.332 m3/năm.

Trúc Giang

Thông báo