Thủ tướng Phạm Văn Đồng, sinh ngày 1-3-1906 ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Từ những năm còn ngồi trên ghế nhà trường, đồng chí đã tham gia phong trào bãi khóa chống Pháp của học sinh, sinh viên. Năm 1925, khi cụ Phan Châu Trinh mất, đồng chí là một trong những học sinh yêu nước trong đoàn học sinh, sinh viên dự lễ tang cụ Phan Châu Trinh. Năm 1926, đồng chí được tổ chức đưa sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện cách mạng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức và gia nhập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Đến năm 1929, đồng chí được cử vào Kỳ bộ Nam Kỳ, rồi vào Tổng bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng Đồng chí Hội và tham gia đại hội của tổ chức này họp ở Hongkong. Tháng 7-1927, đồng chí trở về Sài Gòn tham gia hoạt động cách mạng, bị thực dân Pháp bắt và kết án 10 năm tù, đày đi Côn Đảo.
Tháng 7-1936, do thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp, chính quyền thực dân Pháp buộc phải trả tự do cho đồng chí, đồng chí ra Hà Nội tiến hành hoạt động công khai. Tháng 5-1940, đồng chí đi Côn Minh (Trung Quốc) gặp Nguyễn Ái Quốc. Tại đây đồng chí đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tham gia hoạt động ở Liễu Châu, Tĩnh Tây (Trung Quốc).
Đầu năm 1941, đồng chí được cử về Cao Bằng xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Tháng 8-1945, tại Đại hội Quốc dân diễn ra tại Tân Trào, đồng chí được bầu vào Ủy ban giải phóng Dân tộc, chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đồng chí được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính của Chính phủ lâm thời.
Tháng 1-1946 đồng chí được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và được bầu giữ chức Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội (khóa I).
Ngày 16-4-1946 đồng chí được cử làm Trưởng phái đoàn thân thiện của Quốc hội VNDCCH thăm Cộng hòa Pháp. Cuối tháng 5-1946 đồng chí được cử làm Trưởng phái đoàn Chính phủ VNDCCH tại Hội nghị Fontainebleau (Pháp).
Sau đó, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nổ ra, đồng chí được cử làm Đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ tại Nam Trung bộ. Năm 1947, đồng chí được bổ sung làm Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, Ủy viên chính thức từ năm 1949. Sau đó, từ tháng 7-1949 đồng chí là Phó Thủ tướng Chính phủ nước VNDCCH.
Tại Đại hội Đảng lần thứ II tháng 2-1951 đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, và được Ban chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị. Tháng 5-1954, đồng chí được giao nhiệm vụ Trưởng phái đoàn Chính phủ tại Hội nghị Geneve về Đông Dương. Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp rất căng thẳng và phức tạp, với tinh thần chủ động tiến công của phái đoàn Việt Nam, ngày 20-7-1954, bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Campuchia và Lào đã được ký kết, thừa nhận tôn trọng độc lập, chủ quyền của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Tháng 9-1954, đồng chí được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ, kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng. Ngày 20-9-1955 đồng chí được Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 5 cử làm Thủ tướng Chính phủ nước VNDCCH, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng Nhà nước ta.
Tại Đại hội lần thứ V của Đảng, đồng chí Phạm Văn Đồng tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Tháng 7-1981 đồng chí là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng.
Tại Đại hội toàn quốc của Đảng khóa VI, VII, VIII đồng chí được Trung ương Đảng các khóa cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 12-1997 theo nguyện vọng cá nhân và được Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII chấp thuận, đồng chí được kết thúc nhiệm vụ Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí liên tục được bầu làm đại biểu Quốc hội từ khóa I (1946-1960) đến khóa VII (1981-1987).
Đánh giá về cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tại lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Thủ tướng Phạm Văn Đồng, vào năm 2006 tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải lúc bấy giờ, thay mặt Đảng, Nhà nước và nhân dân đã phát biểu nêu bật những phẩm chất cao đẹp, những đóng góp to lớn của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nhấn mạnh rằng “đồng chí Phạm Văn Đồng là “một trong những chiến sĩ đặc biệt ưu tú” suốt đời hi sinh, phấn đấu vì dân, vì Đảng, vì lý tưởng cộng sản”. Ôn lại cuộc đời chiến đấu, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí Phan Văn Khải cũng khẳng định trong bất kỳ hoàn cảnh nào, đồng chí Phạm Văn Đồng cũng luôn tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng, vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Với quan điểm đúng đắn, tình cảm chân thành, nghệ thuật thuyết phục, cảm hóa, đồng chí Phạm Văn Đồng đã góp phần to lớn trong việc đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước anh em, bạn bè đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ghi nhận.
“Đồng chí Phạm Văn Đồng là nhà ngoại giao tài năng, có uy tín trên thế giới, nhìn xa, trông rộng, tinh tế và linh hoạt, kiên cường và mềm dẻo, ứng xử nhanh nhạy, sáng tạo, luôn luôn thể hiện lập trường chính trị sáng suốt trước thời cuộc và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh”. Đồng chí được bạn bè quốc tế dành cho sự kính trọng, khâm phục và coi là “một trong những nhân vật xuất sắc và có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam trong thế kỷ XX, nhờ những khả năng siêu phàm về ngoại giao cũng như uy tín, ảnh hưởng to lớn ở trong nước”.
Đồng chí đã được tặng nhiều Huân, Huy chương cao quý, trong đó có Huân chương Sao vàng - Huân chương cao quý nhất của Đảng và Nhà nước ta trao tặng vào tháng 3-1990.