Nhà sử học Dương Trung Quốc
Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt cực kỳ trọng đại của lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Sự kiện này không chỉ chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, khẳng định chủ quyền Việt Nam toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất ba miền Bắc – Trung – Nam mà còn chấm dứt chế độ quân chủ đã tồn tại hàng ngàn năm, mở ra con đường để dân tộc ta hội nhập thế giới với cương vị của một quốc gia tự chủ đã đứng trong hàng ngũ của những lực lượng tiến bộ vừa chiến thắng chủ nghĩa phát xít.
Ngày nay, ai có dịp sang thăm London của nước Anh sẽ nhìn thấy một tấm bia gắn trên tường ngôi nhà dựng trên mảnh đất xưa kia là khách sạn Carlton mà trước Thế chiến lần thứ nhất, Bác Hồ đã từng làm phụ bếp để mưu sinh trên con đường cứu nước của mình. Tấm bia lưu niệm ghi dòng chữ: “Hồ Chí Minh, người đã sáng lập nước Việt Nam hiện đại”.
Sự định danh ấy không chỉ tôn vinh mà khẳng định dấu ấn to lớn tạo nên một bước chuyển đổi quan trọng đối với dân tộc Việt Nam mà cuộc Cách mạng Tháng Tám là một sự kiện quyết định như một khúc quanh của lịch sử.
Nền độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên ngôn trong Ngày lễ độc lập 2-9-1945 không những khẳng định chủ quyền của một quốc gia đã đứng về phía Đồng minh chiến thắng giành lại nền độc lập từ tay chủ nghĩa phát xít Nhật cũng như xóa bỏ chế độ quân chủ với việc ông vua cuối cùng của triều Nguyễn thoái vị, mà quan trọng hơn đã đặt Việt Nam vào quỹ đạo của sự hội nhập với thế giới hiện đại bằng sự ra đời một thể chế Dân chủ - Cộng hòa.
Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam bằng việc trích dẫn 2 nguyên lý quan trọng như những di sản chính trị của nhân loại từ Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ và Tuyên ngôn nhân quyền - dân quyền Pháp của thế kỷ XIII, Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn toàn không có mục đích nhằm tranh thủ hai cường quốc phương Tây đang có một vai trò quan trọng đến vận mệnh của dân tộc ta mà thông điệp quan trọng nhất là khẳng định ý nghĩa lịch sử của văn kiện lịch sử này là dân tộc Việt Nam quyết xứng đáng với nền độc lập tự do tự mình giành được và sẽ đóng góp vào sự tiến bộ của nhân loại. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng với những gì dân tộc Việt Nam làm được từ khởi đầu là cuộc Cách mạng Tháng Tám thực sự đã đóng góp cho tiến trình giải phóng các dân tộc nhược tiểu bị chủ nghĩa thực dân thống trị với giá trị của nguyên lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”…
Chỉ cần nghiên cứu giai đoạn lịch sử ngắn ngủi kể từ khi Việt Nam lập cho đến trước khi chiến tranh bùng nổ, chúng ta có thể nhận ra những tiền đề quan trọng cho công cuộc hội nhập và phát triển nếu chúng ta không bị ngăn cản bởi những ý đồ điên cuồng chống phá của chủ nghĩa thực dân. Những thông điệp của Việt Nam khẳng định đường lối đối ngoại rộng mở: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ, không muốn gây thù oán với ai”, "Nước Việt Nam chủ trương hoàn toàn độc lập và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ".
Đồng thời với đường lối đối ngoại rộng mở là một chính sách kinh tế thực sự "mở cửa'': "Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, các nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng tất cả các cảng, các sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; c) Nước Việt Nam chấp nhận mọi tổ chức hợp tác kinh tế dưới sự lãnh đạo của Liên hiệp quốc”.
Có thể nói rằng đó là một cương lĩnh hội nhập chủ động và toàn diện mà cho đến hôm nay chúng ta vẫn cảm nhận được tính thời sự và những giá trị mang tính nguyên tắc của công cuộc hội nhập gắn liền với công cuộc đổi mới mà chúng ta đã trải nghiệm qua hơn một năm rưỡi gia nhập WTO.
Với một tư duy biện chứng và một tầm nhìn xa trông rộng, ngay từ những ngày độc lập đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vạch ra mục tiêu quan trọng hàng đầu để bảo đảm đưa đất nước từ một quốc gia lạc hậu hội nhập với thế giới hiện đại. Đó là mục tiêu xây dựng con người có đủ năng lực của công dân một quốc gia độc lập và một định hướng hội nhập.
Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Cách mạng vừa ra mắt tại Quảng trường Ba Đình trong ngày lễ Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên "những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa'' gồm 6 vấn đề. Vấn đề thứ nhất là phải cứu đói, vấn đề thứ hai là phải diệt dốt, vấn đề thứ ba phải có hiến pháp dân chủ và tổ chức tổng tuyển cử, vấn đề thứ năm là bỏ các thứ thuế vô nhân đạo và cấm hút thuốc phiện, vấn đề cuối cùng là tự do tín ngưỡng và đoàn kết tôn giáo.
Riêng vấn đề thứ tư được coi như một “nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta”.
Sở dĩ coi đó là nhiệm vụ cấp bách là bởi chế độ cũ "đã hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác". Do vậy nhiệm vụ cấp bách giáo dục lại nhân dân nhằm mục tiêu "làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập". Và vị Chủ tịch nước "đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần - kiệm - liêm - chính". Vì thế trong lúc bận rộn vì lo cứu đói, diệt dốt lại phải đối phó với nguy cơ giặc ngoại xâm... Bác Hồ vẫn không quên mặt trận xây dựng con người mới. Cùng với việc xây dựng bộ máy chính quyền, những sắc lệnh nhằm giám sát và trừng trị sự tha hóa biến chất trong đội ngũ quan liêu đã được ban hành.
Ban thanh tra đặc biệt và Tòa án đặc biệt được thiết lập chuyên giám sát và xử lý quan chức. Trên một bình diện rộng lớn hơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động một phong trào “Đời sống mới'' và giao việc này cho hội Văn hóa Cứu quốc. Cuộc vận động ''Đời sống mới'' trở nên sôi nổi và một ủy ban chỉ đạo được thành lập từ tháng 4- 1946. Trong cuộc vận động ấy, anh em văn nghệ sĩ nghĩ đến một sáng kiến: vận động sáng tác... khẩu hiệu. Không phải là những khẩu hiệu sáng tác cho kêu để khích lệ ồn ào mà là những khẩu hiệu thiết thực nhằm "giáo dục lại nhân dân'', để làm thay đổi tư chất người dân từ đám thần dân của chế độ phong kiến, đám "thuộc dân'' của chế độ thuộc địa trở thành người công dân của một quốc gia độc lập biết quyền và nghĩa vụ của mình theo khuôn khổ pháp luật quy định.
Để có được sự biến cải ấy quả là không dễ. Một ví dụ, cuộc thi sáng tác khẩu hiệu được báo Tiền Phong, cơ quan ngôn luận của Hội Văn hóa Cứu quốc tổ chức để hưởng ứng phong trào Đời sống mới do Bác Hồ khởi xướng.
Bạn cứ tưởng tượng xem, bước chân vào công sở thấy trên tường dán khẩu hiệu "Công chức là người giúp dân, không phải là quan”; “Vào công sở chớ khúm núm sợ sệt, mà cũng không lấc cấc ngạo nghễ. Mạnh dạn hỏi han: đấy là quyền của dân; Hỏi han cho lễ độ: đó là bổn phận của dân”; “Đem tiền hối lộ là điều bất chính”, “Không chịu để cho viên chức đối đãi khinh rẻ, mày tao hay bắt chầu chực quá đáng’"; “Bị oan ức phải kêu, phải tranh đấu, không được nhẫn nhịn chịu im”… thì liệu có cán bộ nào dám lên mặt với dân...?
Sự minh bạch những nguyên tắc ứng xử như vậy làm cho ý thức của người dân vượt qua được những tập quán lâu đời của những thần dân của chế độ cũ và tạo ra những phẩm chất cần có của người công dân ở chế độ mới. Trong phong trào đời sống mới 62 năm về trước, các khẩu hiệu còn được sáng tác cho những không gian xã hội khác như trong bệnh viện, ngoài chợ hay trường học... là sự nhắc nhở mọi công dân phải hành xử theo quyền và nghĩa vụ của mình. ''Giáo dục lại nhân dân'', nói cách khác là trang bị cho người dân những hiểu biết và kỹ năng làm công dân từ việc nhỏ như gìn giữ vệ sinh công cộng đến việc lớn như thực hiện quyền bầu cử...
Cuộc chiến tranh bùng nổ vào cuối năm 1946 rồi kéo dài 3 - 4 thập kỷ đã phá vỡ nhiều tập quán tốt đẹp mới được nhen nhóm. Nhưng ngay cả trong những thử thách khốc liệt ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên trì thực hiện cái nhiệm vụ cấp bách đã đặt ra từ ngày đầu đất nước độc lập.
''Sửa đổi lề lối làm việc'' trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cũng như các cuộc vận động ''Xây dựng con người mới'', ''Chống chủ nghĩa cá nhân'', rồi ''Người tốt việc tốt, nhằm thực hiện mục tiêu ''giáo dục lại nhân dân'' đã được Bác Hồ theo đuổi không biết mệt mỏi cho đến cuối đời mình.
Công cuộc đổi mới thực chất là quá trình dân chủ hóa, xây dựng một xã hội sống và làm việc theo pháp luật đang đòi hỏi sự trở lại với mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra ngay từ ngày đầu thành lập chế độ bởi vì cho đến nay trên nhiều lĩnh vực của đời sống, những vấn đề đã từng tồn tại từ trước khi đất nước độc lập vẫn còn hiển hiện trong đời sống hôm nay như những tàn dư của quá khứ biến dạng trong sự phức tạp của xã hội hiện đại. Công cuộc hội nhập càng đòi hỏi chúng ta phải thực hiện cái ''nhiệm vụ cấp bách'' được Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra từ hơn sáu thập kỷ trước. Bởi vì cuộc Cách mạng Tháng Tám là sự khởi đầu mà những bài học sâu sắc của nó vẫn tinh khôi trong bối cảnh đất nước hôm nay đang kiên trì đổi mới và nỗ lực hội nhập.