Khẳng định như trên để nêu tiếp một đặc điểm, đồng thời là nguyên nhân chủ yếu đưa đến thành công của Cách mạng tháng Tám: Đây là cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thời điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 2-1930, cũng là lúc cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc Dân đảng của Nguyễn Thái Học tan rã hoàn toàn. Cách mạng nước ta từ đây do chính đảng duy nhất lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam (về sau là Đảng Cộng sản Đông Dương), lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Đảng xây dựng được hệ thống tổ chức từ cơ sở đến trung ương, mỗi lần bị kẻ thù đánh phá đều kịp thời củng cố, kiện toàn. Cách thức hoạt động của Đảng dù bí mật, nửa công khai hay công khai, là đi sâu vào nhân dân lao động, để tuyên truyền giác ngộ, vận động họ đứng lên đánh đổ áp bức bất công, giành lại quyền lợi về tay mình. Nhiều cuộc đình công, bãi thị, bãi khóa, biểu tình... do Đảng phát động ở nhiều nơi là những cuộc tập dượt rất tốt cho quần chúng. Đảng có đội ngũ đảng viên ưu tú, một lòng một dạ trung thành với lý tưởng cộng sản, luôn dẫn đầu trong các cuộc đâấu tranh và kiên cường bất khuất trước kẻ thù tàn bạo, xảo quyệt. Do đó dù nhiều lãnh tụ và đảng viên của Đảng bị bọn thống trị giam cầm tra tấn và sát hại, Đảng vẫn tồn tại và lãnh đạo cách mạng, lòng tin yêu của nhân dân đối với Đảng ngày càng nâng lên.Trí tuệ của Đảng thể hiện ở chỗ vạch ra đường lối đúng. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng xác định hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là phản đế và phản phong, với động lực chính là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Đảng luôn nắm vững hai nhiệm vụ này, nhưng biết linh hoạt chứ không cứng nhắc để xác định đúng đối tượng cách mạng từng thời kỳ.
Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930 - 1931 giúp quần chúng thấy rõ con đường giải phóng dân tộc và giai cấp, vững tin ở sức mạnh của mình. Hai khẩu hiệu chiến lược “Độc lập dân tộc” và “Người cày có ruộng” do Đảng đề ra trở thành niềm tin và hy vọng, có sức động viên rất lớn đối với nhân dân lao động và quần chúng nói chung. Sự liên minh giữa công nhân và nông dân được thực hiện qua cao trào cách mạng này.
Những năm giữa của thập niên 1930 xuất hiện nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới; mặt khác do hậu quả của khủng hoảng kinh tế và chính sách bóc lột, đàn áp của giới cầm quyền, các tầng lớp nhân dân mong muốn có những đổi thay mang tính chất dân chủ. Tháng 7-1936, Hội nghị Trung ương Đảng nhận định hai nhiệm vụ phản đế và phản phong vẫn không thay đổi, nhưng mục tiêu trực tiếp trước mắt của cách mạng lúc này là đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa tay sai của chủ nghĩa phát xít, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Để thực hiện mục tiêu này, Đảng chủ trương lập Mặt trận Thống nhất dân chủ Đông Dương, bao gồm các giai cấp, đảng phái, các dân tộc, các đoàn thể, các nhóm chính trị tán thành cải cách dân chủ và tiến bộ, triệt để lợi dụng những khả năng hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên truyền tổ chức quần chúng, đồng thời củng cố và phát triển tổ chức bí mật của Đảng. Thắng lợi của cao trào Mặt trận Dân chủ thời kỳ 1936 - 1939 chuẩn bị lực lượng và trận địa cho cao trào cứu nước rộng lớn hơn về sau.
Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tháng 11-1939, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu nhấn mạnh giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng, chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, nòng cốt là liên minh công nông.
Năm 1940, quân đội Nhật xâm lược Đông Dương, bọn thực dân Pháp để chúng ngang nhiên vào. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ bảy họp tháng 11-1940 nhận định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là Nhật - Pháp, nhiệm vụ trước mắt của Đảng là lãnh đạo nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang đánh đổ phát xít Nhật và thực dân Pháp, giành chính quyền về tay nhân dân.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám họp tại Pắc Bó (Cao Bằng) tháng 5-1941, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đã phát triển và hoàn chỉnh nghị quyết của hai hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu và thứ bảy. Nghị quyết xác định: “Pháp - Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương. Trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật.... Nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp trâu ngựa muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được... Muốn đánh đổ Pháp - Nhật, ta phải liên hiệp với tất thảy nhân dân Đông Dương không chừa một giai cấp nào...”(2).
Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ phải “tập trung cho được lực lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh tan giặc Pháp - Nhật xâm chiếm nước ta. Sự liên minh tất cả các lực lượng của các giai cấp, đảng phái, các nhóm cách mạng cứu nước, các tôn giáo, các dân tộc chống Pháp - Nhật, đó là công việc cốt yếu của Đảng ta”(3). Sách lược mới của Đảng là “phải vận dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt Nam)”(4), đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề nghị Hội nghị quyết định thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất riêng của Việt Nam, thể hiện đậm nét tính chất dân tộc.
Ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh, được thành lập. Ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố tuyên ngôn, chương trình và điều lệ. Tuyên ngôn nói rõ: Việt Nam chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn. Chương trình gồm 44 điểm, về sau đúc kết thành 10 chính sách lớn, mang tinh thần cơ bản là: Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do. Phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân, Mặt trận Việt Minh có sức thu hút mạnh mẽ. Các hội cứu quốc, thành viên của Mặt trận, phát triển nhanh chóng, hoạt động ngày càng sôi nổi.
Như vậy, điều quyết định trước tiên là Đảng đề ra đường lối cách mạng đúng đắn và tiếp theo là có bước đi thích hợp, khẩu hiệu thiết thực, phù hợp với đặc điểm từng thời kỳ và nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Các lần chuyển hướng chiến lược kịp thời nói lên sự sáng suốt của Đảng, nhờ đó phong trào cách mạng luôn luôn phát triển đi lên.
Việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân, tập hợp lực lượng quần chúng được Đảng chuẩn bị một cách công phu. Nhưng khi nào thì cách mạng sẽ nổ ra, đó là vấn đề thời cơ. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trước đây như các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương sở dĩ thất bại là vì chuẩn bị chưa tốt và nổ ra không đúng thời cơ. Coi trọng yếu tố thời cơ, ngay từ khi chiến tranh thế giới xảy ra năm 1939, Đảng đã nhận định cuộc chiến tranh này sẽ tạo ra thời cơ “trăm năm có một” để dân tộc ta làm cách mạng giải phóng dân tộc thành công. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5-1941 và Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945 đều có dự đoán khả năng thời cơ sẽ đến với các tình huống xảy ra: quân Đồng Minh đổ vào Đông Dương đánh Nhật; cách mạng Nhật bùng nổ; nước Nhật bị chiếm đóng... Cho đến tháng 8-1945 thì tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện. Hội nghị toàn quốc của Đảng từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945 quyết định chuyển xoay vận nước bằng cuộc tổng khởi nghĩa trong toàn quốc. Chủ tịch Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Tình thế lúc này là Nhật đã tuyên bố đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương bị mất hết tinh thần, tê liệt như rắn mất đầu. Chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên rệu rã, hoang mang cực độ. Còn khí thế cách mạng của nhân dân ta dâng cao hơn bất cứ lúc nào trước đây.
Chỉ trong vòng không đầy hai tuần lễ tính từ 19-8-1945, nhân dân ta vùng lên đánh đổ toàn bộ ách thống trị của phát xít Nhật, thành lập chính quyền cách mạng trong cả nước. Đây là cuộc tổng khởi nghĩa hòa bình, hầu như không đổ máu, và thắng lợi trọn vẹn, nhanh chóng. Cần nhấn mạnh sự sáng suốt và sáng tạo, sự nhạy bén và khéo léo của Đảng trong việc phát hiện thời cơ và chớp thời cơ, hành động quyết liệt, khẩn trương để làm chủ đất nước. Nhiều nhà nghiên cứu quốc tế và trong nước từng bình luận: Nếu Đảng Cộng sản không kịp thời phát động tổng khởi nghĩa, để khi quân Đồng Minh kéo vào tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật thì cách mạng Việt Nam ắt phải chịu những tổn thất khôn lường! Cho nên Cách mạng tháng Tám vĩ đại mà Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 cũng vĩ đại.
Vai trò lãnh đạo cuộc Cách mạng tháng Tám của Đảng Cộng sản được khẳng định một cách hùng hồn. Và như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới mười lăm tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(5).
-------------------------------------------------
(1) Trường Chinh, Cách mạng tháng Tám, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1960, tr.30
(2) (3) (4) Văn kiện Đảng 1930 - 1945, tập 3, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1977, tr.193, 196, 209
(5) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội 1986, tr.18