
Mít tinh ngày 2-9-1945 tại Hà Nội
Hầu như tất cả những người dân yêu nước Việt Nam, bất kể tầng lớp nào ở trong nước cũng như kiều bào ta ở nước ngoài, mỗi lần mùa thu đến lại xôn xao nỗi nhớ về Cách mạng tháng Tám năm 1945, một cuộc cách mạng mang tầm vóc lịch sử làm thay đổi diện mạo dân tộc và đất nước sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, xóa tên trên bản đồ thế giới.
Cách mạng tháng Tám diễn ra trong hoàn cảnh đặc biệt: đó là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 (năm 1939 - 1945) giữa phe trục phát xít và lực lượng Đồng Minh đi vào giai đoạn kết thúc. Ngày 30-4-1945, Hồng quân Liên Xô đánh chiếm thủ đô Berlin của phát xít Đức, cắm lá cờ đỏ búa liềm lên nóc nhà Quốc hội Đức. Tên trùm phát xít Hítle tự tử. Ngày 9-5-1945, Đức đầu hàng vô điều kiện. Mặt trận chống phát xít chuyển về phía đông. Hồng quân Liên Xô tiến vào Mãn Châu tiêu diệt đội quân Quan Đông nổi tiếng - đội quân dự bị chiến lược và là niềm hy vọng của phát xít Nhật - báo hiệu ngày tận số phát xít Nhật đã điểm. Tiếp theo ngày 6-8-1945 và 10-8-1945, Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki, giết hại hàng chục vạn thường dân vô tội chớ không phải là đòn quyết định kết thúc cuộc chiến. Ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Ở Việt Nam, từ ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, nắm lấy quyền cai trị dựng lên chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim với nền độc lập giả hiệu, kể từ ngày ấy Việt Nam là thuộc địa của Nhật chớ không phải của Pháp. Chớp lấy thời cơ “ngàn năm có một” ấy. Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo thiên tài của Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã giành lấy chính quyền ở Hà Nội ngày 19-8-1945, ở Sài Gòn ngày 25-8-1945 và ở Huế ngày 30-8-1945. Vua Bảo Đại thoái vị, trao ấn kiếm cho đại diện Trung ương Việt Minh với câu nói nổi tiếng: “Thà làm dân một nước tự do hơn là làm vua một nước nô lệ!” (Tiếc là sau khi trở thành công dân Vĩnh Thụy của nước Việt Nam mới, Bảo Đại đã không giữ lời hứa, tiếp tục làm tay sai cho Pháp chống lại đồng bào dân tộc mình, rốt cục sống lưu vong cô đơn và chết lặng lẽ nơi xứ lạ quê người). Sau khi ta giành được chính quyền ở Hà Nội, ngày 26-8-1945, Hồ Chủ tịch từ chiến khu Việt Bắc về đến Hà Nội ở nhà số 48, phố Hàng Ngang, và chính tại nơi đây Người soạn thảo Bản tuyên ngôn độc lập rồi đến ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc Bản tuyên ngôn độc lập này trước hàng chục vạn đồng bào thủ đô Hà Nội: Hỡi đồng bào cả nước “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong Bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”...
Sau khi vạch trần những tội ác dã man tàn bạo của bọn thực dân Pháp trong hơn 80 năm thống trị nước ta, trong đó có vụ chúng gây ra nạn đói làm chết hơn 2 triệu người ở miền Bắc đầu năm 1945, chúng đã quỳ gối đầu hàng phát xít Nhật sau cuộc đảo chính quân sự ngày 9-3-1945. Thực tế nước ta trở thành thuộc địa của phát xít Nhật từ ngày ấy. Bản tuyên ngôn lịch sử nhấn mạnh: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc ấy phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố rằng: Nước Việt Nam có quyền tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy!”.  |
Thành lập đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân ngày 22-12-1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo (Nguyên Bình - Cao Bằng) |
Tác giả Trần Dân Tiên từng nhận định Bản tuyên ngôn độc lập như sau: “Bản tuyên ngôn độc lập là kết quả bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam”. (Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch).
Và nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã dùng hình ảnh tuyệt đẹp nói về đất nước ta sau thành công Cách mạng tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong buổi lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc Bản tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình lịch sử:
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!
Đã 63 năm trôi qua. Bao nhiêu biến thiên lịch sử đã diễn ra trên đất nước. Nhân dân Sài Gòn ngày ấy chỉ mới hưởng không khí tự do độc lập có 28 ngày đã phải cầm súng đứng lên chống bọn thực dân Pháp, được sự giúp đỡ quân Anh - Ấn vào giải giáp quân phát xít Nhật đầu hàng, đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần nữa. Một năm sau, ngày 19-12-1946 toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Với tinh thần Cách mạng tháng Tám quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến, sau chín năm kháng chiến gian khổ đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954) buộc giặc Pháp phải ký Hiệp định Genève 1954, rồi hai năm sau đó rút hết quân về nước. Miên Bắc hoàn toàn giải phóng, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành chỗ dựa vững chắc và hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam “Chín năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” (Tố Hữu).
Pháp đi rồi Mỹ đến, chúng đào tạo bè lũ tay sai mới theo Mỹ, lấy miền Nam làm thí điểm chủ nghĩa thực dân mới với chiêu bài "chống cộng sản, bảo vệ thế giới tự do” chúng đã tiến hành nhiều hình thái chiến tranh từ chiến tranh đơn phương, chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ rồi "Việt Nam hóa chiến tranh", gây ra không biết bao nhiêu tội ác “trời không dung đất không tha" với nhân dân ta, nhưng cuối cùng phải chấp nhận ''sự thất bại nhục nhã nhất trong lịch sử nước Mỹ”, phải ký Hiệp định Paris (27-1-1973) rút hết quân về nước. Và chỉ hai năm sau đó, ngày 30-4-1975, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giữ vững và bảo vệ nền độc lập ra đời từ Cách mạng tháng Tám, sau 30 năm chiến đấu vô cùng gian khổ và hy sinh oanh liệt của cả dân tộc.
Ngày nay, sau 63 năm nhìn lại chặng đường vẻ vang của lịch sử dân tộc, chúng ta rút ra những bài học lớn của Cách mạng tháng Tám: đó là tinh thần cách mạng tiến công quyết liệt, biết tranh thủ nắm lấy thời cơ ''ngàn năm có một” khi phát xít Nhật đầu hàng, quân Đồng Minh chưa vào kịp để giải giáp quân đội Nhật, Bác Hồ và Trung ương Đảng đã ra lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước, thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt ''việc đã rồi'' trước khi quân Đồng Minh Tàu Tưởng tiến vào miền Bắc, quân Anh - Ấn tiến vào miền Nam giải giới quân Nhật đầu hàng.
Nếu chúng ta kịp tranh thủ chớp lấy thời cơ cướp chính quyền làm chủ đất nước thì điều gì sẽ xảy ra khi quân Đồng Minh tiến vào? ''Lạc nước hai xe đành bỏ phí/ gặp thời một tốt cũng thành công”. Bác Hồ từng dạy như vậy trong bài thơ ''Học đánh cờ”.
 |
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình Hà Nội |
Và tinh thần chớp lấy thời cơ của Cách mạng tháng Tám được áp dụng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, khi thấy xuất hiện nguy cơ tan rã sụp đổ quân ngụy Sài Gòn ở mặt trận Buôn Ma Thuật trong chiến dịch Tây Nguyên ngày 10-3-1975, Bộ Chính trị và Bộ Tổng tư lệnh đã ra lệnh thần tốc, táo bạo tiến về giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử trong thời gian ngắn nhất, kết thúc vào trưa 30- 4-1975.
Bài học lớn thứ hai của Cách mạng tháng Tám là tinh thần đoàn kết yêu nước của dân tộc Việt Nam trước vận mệnh lịch sử dân tộc, đã gắn bó triệu người như một dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, biến thành sức mạnh tổng lực giành chính quyền cả nước trong thời gian ngắn nhất, đưa Cách mạng tháng Tám thành công khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Bác Hồ đã từng dạy: ''Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Chính nhờ sự đoàn kết chặt chẽ trong nước và quốc tế mà cách mạng Việt Nam đã giành được từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Bài học đoàn kết càng có ý nghĩa hơn khi chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa, hội nhập khu vực và thế giới với khẩu hiệu ''Việt Nam muốn là bạn với các dân tộc'' đã phát huy tác dụng tích cực trong quan hệ quốc tế với ASEAN, APEC, ASEM, UNESCO, WTO, Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và các cuộc hội nghị, hội thảo quốc tế quan trọng khác.
Trên đường thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' tiến vào thời kỳ ''công nghiệp hóa, hiện đại hóa” trong những thập niên đầu thế kỷ 21 thì bài học lịch sử từ Cách mạng tháng Tám về tranh thủ nắm lấy thời cơ đưa ra những quyết định đúng đắn, nhanh chóng, kịp thời có lợi cho sự nghiệp cách mạng, cũng như giương cao ngọn cờ đoàn kết trong nội bộ Đảng và nhân dân, trong nước và quan hệ quốc tế, càng có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc khi chúng ta long trọng kỷ niệm lần thứ 63 cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại này.
Thu 2008