Chủ Nhật, ngày 14 tháng 12 năm 2025

Từ Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 12 (khóa III) tháng 12-1965

Tuyên huấn Sài Gòn - Gia Ðịnh trong bước ngoặt kháng chiến chống Mỹ cứu nước (năm 1966 – 1970)

Năm 1965, Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng. Tỉnh ủy Quảng Đà gửi thư động viên quân dân toàn tỉnh kiên quyết đánh Mỹ. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phối hợp với các ngành, các đoàn thể tiến hành cuộc vận động “Nhà nhà đón thư Đảng bàn việc chống Mỹ, cứu nước”, “Toàn dân hiến kế đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”; “huyện Hòa Vang lập vành đai diệt Mỹ”… Sau trận đầu đánh Mỹ thắng lợi, lực lượng tuyên huấn tăng cường công tác tuyên truyền nêu rõ chiến thắng Núi Thành, Vạn Tường; qua đó chứng tỏ quân dân ta có khả năng đánh bại quân Mỹ mặc dù chúng có ưu thế về số lượng, hỏa lực và sức cơ động.

Phát biểu ý kiến tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 12 (khóa III) ngày 27-12-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ, quyết tâm làm đúng nghị quyết của Trung ương, không sợ gian khổ, hy sinh thì nhất định chúng ta đánh thắng được giặc Mỹ xâm lược, giải phóng được miền Nam, bảo vệ được miền Bắc, thống nhất được nước nhà”(1).

Trong chiến dịch phản công mùa khô, 3 tháng đầu năm 1966, Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng hơn 70 vạn quân (trong đó 1/3 là quân Mỹ và chư hầu) tập trung chủ yếu đánh vào miền Đông Nam bộ và Khu 5, gọi là “chiến dịch 5 mũi tên”. Tại Sài Gòn - Gia Định, những năm 1965 – 1973 là thời kỳ chiến tranh ác liệt nhất chống thực binh Mỹ; địch đánh phá ngày đêm bằng đủ các loại phương tiện chiến tranh, căn cứ tuyên huấn phải di chuyển liên tục, tuy có lúc bị động phải chuyển căn cứ cùng Khu ủy đến một số tỉnh khác, thậm chí đến biên giới Campuchia, nhưng nhờ có sự chuẩn bị chu đáo về hệ thống hầm, địa đạo, nơi làm việc nên công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ và nhân dân vẫn được duy trì liên tục. Trụ được trong bối cảnh Mỹ ngụy càn quét, đánh phá ác liệt là kết quả của nhiều sáng kiến, ứng phó độc đáo của lực lượng kháng chiến bấy giờ, trong đó có tuyên huấn các cấp.

Giai đoạn này Khu ủy Sài Gòn – Gia Định vừa chỉ đạo chống “chiến dịch 5 mũi tên” của địch, trong đó một mũi đánh vào vùng giải phóng bắc Củ Chi, vừa chỉ thị thiết lập “vành đai diệt Mỹ”, tổng kết chiến tranh nhân dân và phát động phong trào thi đua diệt giặc Mỹ. Tuyên huấn Khu ủy được tăng cường thêm hàng trăm cán bộ thực hiện chủ trương mở rộng và đi vào chiều sâu nhằm tăng cường công tác tuyên huấn trên các mặt, chia lửa với cánh quân sự. Tuyên huấn nắm được nhiều tổ chức trong nội thành ở nhiều ngành, nhiều giới như học sinh sinh viên, công nhân, trí thức, báo chí... Ở ngoại thành, Báo Ngọn cờ Gia Định, Ngọn cờ Giải Phóng không lúc nào ngừng phát hành xuống cơ sở ấp chiến lược, vùng ven cùng nhiều tài liệu, áp phích khẩu hiệu, truyền đơn với số lượng lớn. Các đoàn văn công liên tục biểu diễn, chiếu phim phục vụ đồng bào, chiến sĩ.

Tháng 2-1966, Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương trên địa bàn huyện Củ Chi và rút ra 10 bài học kinh nghiệm đánh Mỹ: “Ai cũng đánh được Mỹ. Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ. Nhiều cũng đánh, ít cũng đánh, một người, một tổ cũng đánh và đều đánh thắng. Ở đâu cũng đánh được Mỹ. Đánh ở rừng, ở xóm, ở ấp chiến lược, ở đồng lầy. Chỉ cần tích cực bám địch, tìm địch mà đánh là được. Đánh cả ở trong xã, ấp chiến đấu và ngoài xã, ấp chiến đấu, chỉ cần nâng cao quyết tâm tìm Mỹ mà đánh, tìm Mỹ mà diệt. Có khả năng đánh thắng các loại binh chủng Mỹ. Đánh bằng vũ trang, đánh bằng chính trị, đánh cả bằng binh vận”. Tuyên truyền về phương thức và khả năng có thể đánh Mỹ và thắng Mỹ thổi bùng khí thế tiến công, thi đua đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”, thể hiện khí phách của quân đội cách mạng.

Phong trào sinh viên - học sinh phát huy văn hóa dân tộc bằng mọi hình thức khắp các trường học; đoàn văn nghệ sinh viên - học sinh được thành lập, một mặt trận mới rất sôi động được mở ra, đấu tranh chống kẻ thù phá hoại văn hóa, tư tưởng. Các trường đại học Vạn Hạnh, Văn khoa, Khoa học... và hầu hết các trường trung học lớn đều có đoàn văn nghệ sinh viên - học sinh. Đêm 26-1-1968, tại sân Trường Quốc gia Hành chánh trên đường Trần Quốc Toản, một địa điểm gần các khu lao động Ngã Bảy, Bàn Cờ vốn có truyền thống đấu tranh, học sinh, sinh viên, đã diễn ra đại hội văn nghệ sinh viên, học sinh mừng Tết Quang Trung quy mô lớn với rừng biểu ngữ và áp phích cổ động. Đêm văn nghệ quy tụ gần 20.000 học sinh, sinh viên của 21 phân khoa đại học, 53 trường trung học ở Sài Gòn - Gia Định. Các điệu múa, các bài sử ca, tranh đấu như Hát cho dân tôi nghe, Chúng ta đã đứng dậy, Rạch Gầm dậy sóng, Hát từ đồng hoang... mà điểm nhấn là nhạc phẩm Người đợi người, nhằm thôi thúc, động viên học sinh, sinh viên sẵn sàng đến các điểm để cùng các đội biệt động Phân khu 6 và các tiểu đoàn chủ lực chiếm giữ mục tiêu.

Phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”, “Nói đồng bào tôi nghe”, “Nghe đồng bào tôi nói” được Tổng hội Sinh viên Sài Gòn phát động từ mùa Giáng sinh năm 1969 lan tỏa đến nhiều thị xã, thị trấn Nam bộ.

Bên cạnh đó, chưa bao giờ ở Sài Gòn báo chí đối lập lại nhiều như lúc bấy giờ: Tin sáng, Điện tín, Đại dân tộc, Đối diện (hay Đồng dao, Đứng dậy), Trình bày, Chọn, Hành trình, Đất nước... Hàng ngũ ký giả được tăng cường với những cây bút chiến đấu như Lý Chánh Trung, bà Ngô Bá Thành, luật sư Nguyễn Long, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Nguyên, Trần Thúc Linh, Nguyễn Hữu An, các linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần... Châm biếm cay độc có họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành), họa sĩ Chóe (Nguyễn Hải Chí), nhà thơ “chua” Cung Văn (Nguyễn Vạn Hồng)…

Báo Công giáo và dân tộc hải ngoại ở Pháp vừa ủng hộ về mặt dư luận vừa ủng hộ về vật chất cho phong trào. Các tổ chức công khai của những người Công giáo tiến bộ được thành lập. Tháng 5-1970, Ủy ban chống đàn áp sinh viên, học sinh ra đời, do giáo sư Lý Chánh Trung làm Chủ tịch, đã hỗ trợ tích cực cho phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh và có tác dụng hạn chế đàn áp của địch. Ngày 30-10-1970, Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù đã được thành lập với sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức, tu sĩ Công giáo, tăng ni, phật tử tại tòa báo Đối diện. Ngay ngày thành lập, Ủy ban đã ra Tuyên ngôn tố cáo tính cách vi hiến, bất hợp pháp và vô nhân đạo trong chính sách bắt bớ, giam cầm, đối xử tàn nhẫn với tù nhân và đòi chính quyền phải có biện pháp giải quyết cụ thể.

Ngoài các cơ sở in bí mật, Đảng ủy Văn hóa (thuộc Khu ủy Sài Gòn – Gia Định) chủ trương thành lập nhà in công khai, đó là Nhà in Phương Nam và Nhà xuất bản Cửu Long ra đời vào cuối năm 1965, tại đường Nguyễn Thượng Hiền (Gò Vấp) do nhà báo Nguyễn Sĩ Hồng làm Giám đốc và vợ là Phùng Thị Bút quản lý. In sách thương mại để ngụy trang, nhà in bảo đảm chủ động cho “kế hoạch đột xuất” của phong trào; trong đó có việc in ấn một số tờ của ta như báo Hồn Trẻ của Thành đoàn hay Tin Văn của Đảng ủy Văn hóa; khi “nội dung đấu đá căng”, các nhà in khác không dám in thì Phương Nam “lãnh đủ”. Ngoài ra, Nhà in còn đào hầm bí mật để in báo Cờ Giải phóng giữ an toàn cho hoạt động cách mạng.

Tháng 6-1966, 118 văn nhân, nghệ sĩ, ký giả Sài Gòn ra tuyên bố tố cáo văn hóa đồi trụy, phản dân tộc. “Lực lượng Bảo vệ văn hóa dân tộc” ra đời ngày 7-8-1966, là một tổ chức công khai tập hợp đông đảo nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ, đại diện các tôn giáo, các tổ chức văn hóa, giáo dục. Lực lượng ra lời kêu gọi: “Phải cứu lấy văn hóa chúng ta”, và đưa ra khẩu hiệu “Văn hóa còn dân tộc còn, văn hóa mất dân tộc mất”, tập hợp được đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động xã hội thuộc những khuynh hướng chính trị khác nhau. Tờ Tin Văn có ảnh hưởng lớn trong dư luận, quy tụ được rất đông các cây bút yêu nước, nhiều người dân thường ở Sài Gòn ủng hộ vật chất để Tin Văn tồn tại và phục vụ phong trào.

Đặc biệt, trong tháng 9-1969, trước tang chung của dân tộc - Bác Hồ qua đời - cùng lúc với các chùa chiền, các xóm lao động để tang Bác, báo chí Sài Gòn ca ngợi công lao của Bác đối với dân tộc, thì ngày 9-9-1969, công nhân xe buýt cũng làm lễ truy điệu Bác. Ở nhà lao Chí Hòa, 2.000 tù chính trị đã phát động lễ tang Bác Hồ 3 ngày, diệt 2 tên ác ôn, đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ trong suốt 3 tháng. Các đảng bộ tổ chức lễ tang Bác và tiến hành công tác giáo dục tư tưởng, giữ vững niềm tin tất thắng vào sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết xung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng, biến đau thương thành sức mạnh thực hiện các nghị quyết của Đảng, kiên quyết đánh bại âm mưu mới của địch, chống các luận điệu chiến tranh tâm lý của chúng. Các hình thức tưởng niệm Bác đặc sắc diễn ra ngay trong lòng chế độ Sài Gòn.

Phản chiến ở Mỹ, tuyên truyền đối ngoại thành công, một đỉnh cao trong kết hợp sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa vì mục tiêu cao cả xuyên suốt giải phóng dân tộc. Một điển hình là trung úy thủy quân John Kerry (hiện là Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ) qua lời làm chứng trước Ủy ban Ngoại giao của Thượng viện năm 1971: “Tôi muốn nói rằng vài tháng trước ở Detroit chúng tôi có một cuộc điều tra, trong đó có 150 quân nhân đã được giải ngũ trong danh dự đã làm chứng cho những tội ác chiến tranh phạm ở Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của thời đó là chính họ đã hãm hiếp, cắt tai, chặt đầu, kẹp dây điện từ những bộ máy truyền tin vào cơ quan sinh dục rồi quay điện, chặt chân tay, làm nổ tan xác, bắn chơi vào các thường dân, triệt hạ cả làng theo kiểu của Thành Cát Tư Hãn, bắn trâu bò, chó, làm trò chơi, đầu độc các kho lương thực và hầu như là tàn phá toàn diện miền quê Nam Việt Nam, ngoài sự tàn phá thông thường của chiến tranh và sự tàn phá thông thường và đặc biệt của những cuộc bỏ bom trên đất nước này”.

Nghị quyết Trung ương 12 (khóa III) là một bước ngoặt trong giai đoạn đầu đánh Mỹ xâm lược trực diện trên chiến trường miền Nam và chiến tranh phá hoại quy mô lớn ở miền Bắc nước ta. Lãnh đạo kịp thời và đúng đắn của Đảng và Bác Hồ đã thúc đẩy công cuộc kháng chiến trên cả nước, dân tộc ta đã “không sợ hy sinh, gian khổ” như lời Bác Hồ phát động, kiên cường chống Mỹ trên cả hai miền Nam - Bắc. Năm 1968, mở trận Mậu Thân, năm 1972 trận Nam Lào và Điện Biên Phủ trên không... buộc Mỹ ký Hiệp định Paris và rút quân năm 1973. Đánh cho Mỹ cút rồi đánh cho ngụy nhào vào ngày 30-4-1975, cuộc kháng chiến giành thắng lợi trọn vẹn.

Quá trình đó, công tác tuyên huấn ở miền Nam nói chung và trọng điểm ở Sài Gòn - Gia Định nói riêng không ngừng nỗ lực, sáng tạo đã tạo tiếng vang lớn góp công sức, trí tuệ vào thành công chung của dân tộc. Có thể nói, bước ngoặt 1966 - 1970 có ý nghĩa chiến lược cho thắng lợi sau cùng ngày 30-4-1975.

------------------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 14, tr.698.

TS. HOÀNG VĂN LỄ

Thông báo