Từ thế kỷ XIX sang thế kỷ XX, nước ta đắm chìm trong đêm đen nô lệ. Con đường giành lại độc lập cho dân tộc bao năm bế tắc, dẫu các đấng hào kiệt giàu lòng yêu nước thương dân không bao giờ thiếu. Cho đến lúc người thanh niên 21 tuổi Nguyễn Tất Thành vượt trùng dương sang Âu, Phi, Mỹ, bôn ba qua nhiều nước, làm nhiều nghề khác nhau để tự nuôi sống và có điều kiện quan sát, học tập, thì mới tìm được con đường cứu nước. Chín năm sau, tháng 7-1920, anh được đọc Sơ thảo luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, từ đấy hướng niềm tin mãnh liệt của mình về lãnh tụ Lênin và Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Người thanh niên yêu nước đồng thời là chiến sĩ cộng sản đầu tiên của Việt Nam lúc này mang tên Nguyễn Ái Quốc, có sự lựa chọn dứt khoát mang tính tất yếu khách quan: giải phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản. Trên đường trở về phương Đông và dừng chân ở Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc dành một thời gian để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, đào tạo lớp chiến sĩ cách mạng mới. Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, phác thảo đường lối cứu nước, ra báo Thanh niên…
Ngày 3-2-1930, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc ở bán đảo Cửu Long (Hương Cảng) có ý nghĩa như đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị nhất trí thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt. Đảng ra đời ở nước ngoài, trong điều kiện “Như đứa trẻ sinh nằm trong cỏ/ Không quê hương sương gió tơi bời” (thơ Tố Hữu), nhưng sự kiện này là bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, là nhân tố đầu tiên dẫn đến những thắng lợi oanh liệt và những bước nhảy vọt lớn trong lịch sử dân tộc những năm sau. Kể từ thời điểm trọng đại này, cuộc khủng hoảng về đường lối các nước chấm dứt, giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng qua đội tiền phong của mình.
Nhiều cuộc nổi dậy hào hùng bị dìm trong biển máu: cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh, khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ, binh biến Đô Lương… mới có thể đi đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công rực rỡ, đập tan ách thống trị của phát xít Nhật và thực dân Pháp, đồng thời lật đổ chế độ phong kiến mấy ngàn năm. Nhân dân từ người nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh mình. Ở tuổi 15, Đảng từ chỗ hoạt động không hợp pháp trở thành đảng cầm quyền trong cả nước. Vượt qua thời kỳ thử thách “ngàn cân treo sợi tóc” những năm 1945 - 1946, Đảng lãnh đạo toàn dân bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Chín năm chiến đấu được ghi nhớ bằng nhiều dấu ấn sâu sắc. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng tháng 5-1951, Đảng ra công khai với tên Đảng Lao động Việt Nam. Báo cáo chính trị nêu rõ: “Đảng Lao động Việt Nam phải là một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để”.
Chiến dịch Điện Biên Phủ dẫn đến Hiệp định Genève (năm 1954) chấm dứt chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Đông Dương và miền Bắc nước ta được giải phóng. Một thắng lợi hết sức to lớn, lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Nhưng cũng từ đây, một đất nước phải làm hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau: xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hai chiến lược cách mạng được tiến hành đồng thời nhưng nhằm mục tiêu hàng đầu là chống đế quốc Mỹ; củng cố và xây dựng miền Bắc cũng là để thắng Mỹ.
Tháng 9-1960, diễn ra Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng. Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao/ Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình/ Đảng ta là đạo đức, là văn minh/ Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no/ Công ơn Đảng thật là to/ Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng”(1).
Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc đấu tranh vô cùng gian khổ, ác liệt. Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã giáo dục để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thấy rõ đâu là sức mạnh của chính nghĩa Việt Nam, đâu là chỗ yếu chí tử của kẻ thù và dám đánh chúng, dù buổi đầu chúng mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Lãnh tụ và Đảng đã tổ chức quân dân ta đi vào trận đánh lớn và lâu dài, biết cách đánh và cách thắng địch, có phương pháp cách mạng và nghệ thuật quân sự tài tình, có chiến tranh nhân dân vô địch với niềm tin mãnh liệt: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”(2). Ngày 30-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn được giải phóng. Trải qua 21 năm chiến đấu, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân quy mô lớn, dài ngày nhất, ác liệt và dã man nhất từ sau Thế chiến II, “và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”(3).
Từ cột mốc vàng lịch sử này, một thời kỳ mới mở ra: Thời kỳ hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng chỉ rõ đi lên chủ nghĩa xã hội vừa là xu thế phát triển của đất nước vừa là nguyện vọng của nhân dân ta. Nói cách khác, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta và dân tộc ta, là con đường duy nhất đúng mà ta đã chọn.
Tuy nhiên cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất, không thể một sớm một chiều. Đảng vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, một cách sáng tạo để dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể thích hợp với tình hình. Qua 30 năm đổi mới (tính từ năm 1986) từ một nước nghèo nàn, mình đầy thương tích chiến tranh trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập ngày càng khá, xây dựng đất nước theo thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày càng có vị thế trên trường quốc tế. Đảng đã tiến hành tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để tiếp tục đổi mới và đi tới. Việc Đảng cũng là việc dân, dân cũng có trách nhiệm xây dựng Đảng để Đảng luôn thực sự trong sạch, vững mạnh.
Đã 86 mùa xuân Đảng Cộng sản quang vinh kể từ xuân Canh Ngọ năm 1930 Đảng ta có mặt trên đời. Nhiều mùa xuân hứa hẹn, đón đợi phía trước. Tiếp tục cuộc hành trình, Đảng tiền phong đi trước, dắt dẫn toàn dân cùng tiến bước theo. Quá khứ hào hùng, thắng lợi to lớn, cho ta vững niềm tin ở tiền đồ dân tộc, tương lai đất nước.
---------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2011, tập 12, tr.403-404.
(2) Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập 15, tr.618.
(3) Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2008, tr.326.