“Vị tướng huyền thoại” là từ mà truyền thông quốc tế nhiều lần dành ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người chưa từng được đào tạo bài bản trong trường quân sự danh tiếng và xuất thân là một thầy giáo dạy sử. Tài thao lược của ông không ít lần được báo chí phương Tây so sánh với nhà chỉ huy quân sự lỗi lạc nhất của lịch sử Pháp - Napoleon Bonaparte[1], với cụm từ “Napoleon của Việt Nam” hay “Napoleon đỏ”. Cách gọi “Napoleon của Việt Nam” xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí Time (Mỹ) vào năm 1966. Tạp chí này đã 3 lần sử dụng hình ảnh của tướng Giáp làm trang bìa vào các năm 1966, 1968 và 1972. Về sau, “Napoleon của Việt Nam” hay “Napoleon đỏ” tiếp tục được các cơ quan truyền thông lớn sử dụng như Reuters, The Guardian, The Independent (Anh), South China Morning Post (Trung Quốc)… Mặc dù phong cách cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Napoleon Bonaparte không giống nhau (tướng Giáp chú trọng vào “đánh chắc, thắng chắc” trong khi Napoleon thiên về đánh “chớp nhoáng”, “nhanh nhất có thể”), song sự ví von này khẳng định vị thế của nhà quân sự Việt Nam so với các danh tướng trên thế giới.
Trong bài viết “Napoleon đỏ” của Việt Nam Võ Nguyên Giáp qua đời ở tuổi 102 đăng ngày 6/10/2013, hãng tin Reuters nhấn mạnh: “Tướng Giáp là một huyền thoại ở Việt Nam, chỉ đứng sau lãnh tụ Hồ Chí Minh”. Tháng 6/1990, tờ New York Times (Mỹ) đăng nhận xét của nhà sử học người Mỹ Stanley Karnow: “Là một nhà chiến lược táo bạo, một tư duy logic tài năng và một nhà tổ chức không biết mệt mỏi, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chiến đấu suốt hơn 30 năm, biến một đội quân du kích áo vải ít ỏi thành một trong những quân đội hiệu quả nhất của thế giới…”. Thực tế, từ đội quân chỉ gồm 34 chiến sĩ được thành lập vào ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, đã phát triển thành đội quân tinh nhuệ với hơn 1 triệu người vào năm 1975.
Nhà lãnh đạo Phong trào Giải phóng Mozambique (Frelimo) Samora Machel (trái), Tổng thống đầu tiên của Mozambique, chào mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm nước này vào tháng 11/1980. (Ảnh: TTXVN)Trong bài viết Người lãnh đạo quân đội Việt Nam chiến thắng Pháp và Mỹ đăng ngày 4/10/2013, tờ The Guardian xét, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã “chỉ huy lực lượng quân đội non trẻ của Việt Nam đánh bại thực dân Pháp và sau đó tiếp tục dẫn dắt quân đội đánh lại đế quốc Mỹ”. Do đó, không khó hiểu khi nhà sử học Stanley Karnow khẳng định: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh của quân đội cộng sản Việt Nam là một trong những vị tướng tài giỏi nhất lịch sử thế giới”.
Tổng thống Pháp Francois Mitterrand (trái), trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam, đã gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở Hà Nội, ngày 9/2/1993. (Ảnh: Reuters)Truyền thông quốc tế cũng dành sự quan tâm đặc biệt đến nghệ thuật chiến tranh du kích được Đại tướng vận dụng trong cách mạng Việt Nam. Tờ Financial Times (Anh) trích hồi ký của Thiếu tướng Anh về hưu Peter MacDonald, nhận xét: “Tướng Giáp hội tụ một tầm nhìn chiến lược sâu sắc, với sự tinh thông nghệ thuật chiến tranh du kích cũng như công tác hậu cần”. Sau khi Đại tướng qua đời, tờ Washington Post (Mỹ) có hẳn chuyên đề 5 trang để tưởng nhớ ông. Trong số đăng ngày 5/10/2013, Washington Post nhấn mạnh: “Với các học giả quân sự khắp thế giới, ông là một trong những nhà chiến lược hàng đầu trong việc áp dụng nghệ thuật chiến tranh du kích hiện đại”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp gặp cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara (trái) vào tháng 11/1995 tại Hà Nội. (Ảnh: AP)Còn hãng thông tấn Prensa Latina của Cuba khẳng định, nghệ thuật chiến tranh du kích của nhà chỉ huy Võ Nguyên Giáp là “nguồn cảm hứng cho các chiến sĩ đấu tranh vì độc lập dân tộc trên cả thế giới”. Tác chiến du kích là một trong những hình thái cơ bản của chiến tranh nhân dân, được tướng Giáp phát triển, đồng thời là chuyên gia lỗi lạc thực hiện nghệ thuật quân sự này. Theo Bloomberg (Mỹ), Đại tướng “đã dẫn dắt một “cuộc chiến tranh nhân dân” chống lại Pháp với đỉnh điểm là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954”.
Trong số ra ngày 4/10/2013, báo Le Monde (Pháp) nhận định: “Tên tuổi của ông sẽ đi vào lịch sử như một trong những vị tướng vĩ đại nhất của thế kỷ XX, vị tướng duy nhất đã liên tiếp đánh bại quân đội Pháp và dám đương đầu với nước Mỹ". Hãng AP (Mỹ) thì cho rằng, chiến dịch Điện Biên Phủ không chỉ đưa Việt Nam tiến đến nền độc lập mà còn đẩy nhanh sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân ở Đông Dương và xa hơn thế nữa. Không chỉ là “kiến trúc sư thắng lợi của Việt Nam” (theo cách ví von của báo chí Algeria), Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn là người chỉ huy quân sự đậm chất nhân văn. Yếu tố này thể hiện rõ nét nhất trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Không chiến thắng bằng mọi giá, tướng Giáp đã thay đổi phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” chỉ vài giờ trước khi chiến dịch diễn ra.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và hai đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, những người tích cực đấu tranh phản đối cuộc chiến xâm lược của Pháp tại Việt Nam, Henri Martin (phải) and Raymonde Dien (trái) trong cuộc gặp ngày 1/9/2004 tại Hà Nội. (Ảnh: TTXVN)Sự thay đổi “mang tính lịch sử” được nhấn mạnh trong bài đăng ngày 4/10/2013 của tờ Le Monde, cho đây là “một quyết định mà nửa thế kỷ sau đó, khi tiếp xúc với báo chí phương Tây ông đã thổ lộ là ‘khó khăn nhất trong cuộc đời binh nghiệp của mình’”. Chiến dịch Điện Biên Phủ được AP nhận định là một thắng lợi “tưởng chừng như không thể”, và đến nay, đây vẫn là một trận đánh tiêu biểu được giảng dạy trong các trường quân sự. Trong khi đó, Reuters thì cho rằng: “Chiến dịch này không những gây tổn thất nặng nề cho Pháp - đế quốc lớn thứ hai thế giới lúc bấy giờ, mà còn khiến cho chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới đi đến hồi kết”.
Không mạo hiểm tổn hao lực lượng, giành chiến thắng nhưng hạn chế tối đa sự hy sinh xương máu của binh lính là điều mà tướng Giáp luôn chú trọng các chiến dịch. Trong bài đăng Bắc Việt Nam: Napoleon đỏ ngày 17/6/1966, tờ Time đã nêu phong cách đánh trận của “bậc thầy về chiến lược” Võ Nguyên Giáp: “Đánh là thắng, chỉ đánh khi chắc thắng, nếu không thắng thì không đánh”. Tính nhân văn trong cách nghĩ, cách dụng binh cũng giải thích cho việc “nhà cầm quân” này được gọi với cái tên thân mật “Anh Văn”. Cũng từ đây, Đại tướng còn được truyền thông quốc tế gọi là “vị tướng vì hòa bình”.
Tổng thống Venezuela Hugo Chavez tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp phiên bản thanh kiếm của anh hùng Simon Bolivar của Venezuela khi đến thăm Đại tướng tại nhà riêng ở Hà Nội, ngày 1/8/2006. (Ảnh: Reuters)Hãng tin BBC (Anh) trích lời TS. John Prados, Giám đốc Các dự án tư liệu Việt Nam và tình báo thuộc Trung tâm Lưu trữ an ninh quốc gia Mỹ, nhận xét tướng Giáp “là người luôn vì nhân dân” và “những chiến thắng vang dội của Đại tướng đã mang lại cho ông sự kính phục của chính những kẻ địch mà ông đánh bại”. Còn hãng tin RFI (Pháp) nhấn mạnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp “là vị anh hùng của nền độc lập” của dân tộc Việt Nam.
Sự lỗi lạc của ông được hãng thông tấn AFP (Pháp) xếp ngang hàng với những nhà chiến lược quân sự như Bernard Law Montgomery (Anh), Erwin Rommel (Đức) và Douglas MacArthur (Mỹ)[2]…
Trong bài Sự ra đi của những người nổi tiếng trong năm đăng ngày 26/12/2013, tờ USA Today nhận định: “Võ Nguyên Giáp, 102 tuổi, người miền Bắc Việt Nam, kiên cường và dũng cảm, người đã chiến đấu với quân Nhật chiếm đóng, và lãnh đạo các chiến dịch đánh đuổi cả Pháp và Mỹ ra khỏi Việt Nam. Trong những năm sau đó, ông ủng hộ cải cách kinh tế và quan hệ chặt chẽ hơn với Mỹ”. Trước đó, vào ngày 5/10/2013, hãng tin AP có bài Huyền thoại Võ Nguyên Giáp của Việt Nam qua đời ở tuổi 102, đã miêu tả Võ Nguyên Giáp là một “đại tướng vì hòa bình” với việc lên tiếng phản đối cuộc Mỹ xâm lược Iraq và “về cuối đời, tướng Giáp khuyến khích mối quan hệ “nồng ấm” hơn giữa Mỹ và Việt Nam, hai nước đã bình thường hóa vào năm 1995 và đến nay đã trở thành đối tác thương mại thân thiết”. Việc Đại tướng “ủng hộ việc bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam” cũng được New York Times (Mỹ) đề cập trong bài viết ngày 4/10/2013.
Có thể thấy, ít nhà chỉ huy quân sự nào được truyền thông quốc tế ca ngợi nhiều đến vậy. Điều này một lần nữa khẳng định tài năng, sự ảnh hưởng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đối với cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, xứng danh là “một trong những nhà chiến lược quân sự vĩ đại nhất lịch sử” như nhận định của Reuters trong bài viết đăng ngày 6/10/2013.
Hồng Diễm
---------------
[1] Theo War History, trong suốt sự nghiệp cầm quân, Napoleon Bonaparte đã giành chiến thắng 52/60 trận đánh mà ông tham gia. Trong đó, 3 chiến thắng vang dội nhất chứng minh cho tài năng quân sự của ông là trận Austerlitz (năm 1805), trận Jena-Auerstedt (1806) và trận Friedland (1807).
[2] Bernard Law Montgomery (1887 - 1976), nổi tiếng với trận El Alamein thứ hai, đánh bại Quân đoàn Phi châu, là một bước ngoặt quan trọng trong chiến dịch Sa mạc Tây ở châu Phi năm 1942. Montgomery cũng là người chỉ huy nổi bật của quân đội Đồng Minh ở Ý và Tây Bắc châu Âu trong chiến dịch Overlord (ngày 6/6 - 30/8/1944) và sau này là trận Normandy. Erwin Rommel (1891 - 1944), viên tướng của quân đội Đức Quốc xã, được cho là “bậc thầy chiến thuật trên chiến trường”, “người lãnh đạo trọng xương máu của binh lính dưới quyền”, “hào hiệp với tù binh”, nên thay vì bị chỉ trích như nhiều nhân vật của phát xít Đức ở Thế chiến II, ông nhận được sự tôn trọng của người dân và cả những vị tướng của phe Đồng Minh. Douglas MacArthur (1880 - 1964) là một trong 5 nhân vật được phong hàm Thống tướng lục quân của Mỹ, tham gia 3 cuộc chiến lớn, gồm Thế chiến I, Thế chiến II và chiến tranh Triều Tiên.