(Thanhuytphcm.vn)- Bà Nguyễn An Ninh nhũ danh là Trương Thị Sáu, sinh ngày 26 tháng 6 năm 1899 tại xã Phước Lại, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (Long An). Bà mồ côi cha từ lúc 2 tháng tuổi, gia đìTnh nghèo, anh chị em đều phải sống tự lập. Lớn lên, từ hai bàn tay trắng, quyết chí làm giàu, đến năm 18 tuổi bà đã thoát khỏi cảnh nghèo nàn, có cơ sở làm ăn vững vàng ở Sài Gòn với tên gọi quen thuộc là Cô Sáu Cầu Ông Lãnh.
Chân dung đồng chí Trương Thị SáuNăm 1924, ông Nguyễn An Ninh vừa tốt nghiệp ngành Luật ở Pháp về nước. Những bài báo chống Pháp nảy lửa của ông trên tờ Tiếng chuông rè (La Cloche Fêlée) đã gây được tiếng vang rộng lớn trong công chúng. Bà khâm phục và được những người bạn đầy thiện ý vun đắp, bà kết hôn với ông và theo chồng về sống tại xã Mỹ Hòa quận Hóc Môn tỉnh Gia Định (nay là phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh). Kể từ đây, bà trở thành người đồng hành, người cộng sự đắc lực của ông trên từng bước đường hoạt động cách mạng đầy chông gai, nguy hiểm vì độc lập, tự do của dân tộc mà ông đã lựa chọn.
Từ năm 1924 đến năm 1928, bà lo vận động tiền bạc, chuẩn bị cơ sở vật chất để đón cụ Phan Chu Trinh từ Pháp về nước, chăm sóc thuốc thang cho cụ mạnh khỏe; giúp đỡ phương tiện vật chất, tiền bạc cho đồng chí của Nguyễn An Ninh, nhất là lo cho ông Nguyễn An Ninh tiếp tục ra các tờ báo La Cloche Fêlée, L’Annam, là vũ khí đấu tranh với quân địch và cũng là mặt trận tuyên truyền, đoàn kết dân tộc chống kẻ thù chung.
Năm 1929, chính quyền thực dân tuyên án ông Nguyễn An Ninh 3 năm tù, phạt 1.000 quan tiền, 5 năm mất quyền công dân về tội lập hội kín. Trong những ngày ông phải chịu cảnh tù đày, bà đã sát cánh cùng với ông Châu Văn Liêm vận động, giới thiệu các đầu mối tích cực của tổ chức Thanh Niên Cao Vọng cho Đảng để chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản. Ngôi nhà bà trở thành trạm liên lạc, thư viện đọc sách, chỗ nghỉ ngơi và nơi hoạt động của nhiều đồng chí anh em của ông. Bà đã đón tiếp và chăm sóc cụ Phan Chu Trinh, Trần Thế Truyền từ Pháp về. Đây cũng là nơi hội họp, tá túc của các đồng chí Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Lý Tự Trọng. Bà còn tham gia vận động quần chúng đấu tranh đòi các quyền dân sinh dân chủ, tổ chức bảo vệ cơ sở và tài liệu của tổ chứcThanh Niên Cao Vọng của ông Ninh; tham gia phong trào Đông Dương Đại hội; lo cho ông Nguyễn An Ninh và các đảng viên khác ra tranh cử Hội đồng Thành phố, ra báo La Lutte, L’Avant Garde, Trung Lập.
Tháng 9 năm 1939, nhằm mục đích tách ông Nguyễn An Ninh ra khỏi phong trào quần chúng, thực dân Pháp kết án ông tù biệt xứ. Bà lại một mình vừa tìm cách mưu sinh để nuôi con, vừa kiếm tiền để ủng hộ tổ chức hoạt động. Bà đưa các con về Mỹ Tho, làm rất nhiều nghề như mở hiệu thuốc, nấu dầu cù là, buôn vải, rồi lập gánh hát Kim Chung để kiếm tiền sinh sống, ủng hộ tổ chức. Bà còn thay ông thực hiện những công việc còn dang dở như xuất bản, giữ gìn từng quyển sách, trang viết tâm huyết cả đời của ông.
Giai đoạn từ năm 1941 đến năm 1945, thời gian này ông Ninh lại bị tù. Người Nhật nhiều lần mua chuộc bà để thuyết phục ông Nguyễn An Ninh theo chúng nhưng bà đã hiểu rõ tâm ý của chồng nên vững vàng kiên định. Đến lúc ông Ninh hy sinh ngoài Côn Đảo (1943), còn lại một mình, bà phải tìm kế sinh nhai, nuôi 5 đứa con nhưng vẫn bí mật giúp đỡ các đồng chí hoạt động cách mạng cho đến ngày tham gia cướp chính quyền ở Cần Giuộc.
Vượt qua nỗi đau và mất mát, với một sức mạnh phi thường, người phụ nữ ấy vẫn trỗi dậy tiếp bước chồng. Trong những năm 1946 đến 1948, Bà hoạt động cách mạng ở nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Bà nhận làm Chủ nhiệm tờ báo Phụ nữ - một công việc đầy nguy hiểm lúc bấy giờ, nhận trách nhiệm vận động thành lập Hội Phụ nữ Việt Nam Thành phố, Hội Công Thương gia Thành phố, vận động tổ chức Hội Liên Việt Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Bà là Hội trưởng Phụ nữ và Ủy viên thường vụ Hội Liên Việt cho đến lúc bị lộ, phải thoát ly ra chiến khu. Vào chiến khu, bà tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Hội Phụ nữ Rạch Giá - Phụ nữ Nam Bộ, Phó Chủ tịch Mặt trận Liên Việt Nam Bộ. Ở địa bàn và chức vụ mới, bà tiếp tục đem hết tâm sức để hoàn thành tốt nhiệm vụ cho đến ngày tập kết ra Bắc.
Từ năm 1949 đến năm 1954, bà là Ủy viên Ban Chấp hành Phụ nữ tỉnh Rạch Giá - Phụ nữ Nam Bộ - Phó Chủ tịch Mặt trận Liên Việt; phụ trách công tác cứu tế xã hội, vận động thành lập nhà bảo sanh, trại ấu nhi; ủy lạo bộ đội, tiếp nhận trao trả tù binh và đón tình nguyện quân ở chiến khu cho đến ngày tập kết ra Bắc.
Năm 1955, ra đến Thủ đô, bà được phân công làm Giám đốc Trại Nhi đồng miền Nam tại Hà Nội. Trên cương vị này, bà đã đưa khoảng 500 thiếu nhi đi sơ tán an toàn ở Trung Quốc trong giai đoạn không quân Mỹ đánh phá miền Bắc ác liệt năm 1966.
Năm 1970, bà nghỉ hưu ở Hà Nội, đến năm 1975 bà về lại Thành phố Hồ Chí Minh, tham gia công tác trong Hội Mẹ chiến sĩ và sinh hoạt tại phường 12 quận Phú Nhuận.
Bà là đại biểu Quốc hội khóa II, khóa III và là Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ khóa đầu tiên cho đến khi mất.
Cả cuộc đời hoạt động với khát vọng cao cả, ngày 03 tháng 12 năm 1983, cô Sáu Cầu Ông Lãnh – phu nhân của nhà yêu nước Nguyễn An Ninh – đã ra đi, thỏa ước nguyện “mãi mãi theo ông đi suốt cuộc đời”. Cuốn hồi ký “Cùng anh đi suốt cuộc đời” của bà Trương Thị Sáu nói về cuộc hành trình mang hoài bão lớn, là minh chứng rõ nhất cho tâm sự của người phụ nữ dám hy sinh cả cuộc đời mình cho lý tưởng lớn lao của chồng. Quá trình hoạt động, cống hiến của Bà được Đảng và Nhà nước ghi nhận qua các khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huân chương chống Pháp hạng Nhất; Huân chương chống Mỹ hạng Nhì.