Găn liền vơi giai thoại nổi tiếng về nàng Bích Châu, vua Trần Duệ Tông được đời đời khâm phục vì bản lĩnh, khí phách và lý tưởng chấn hưng dân tộc. Ông được mệnh danh là "ông Vua trên lưng ngựa" bởi mối thâm duyên với "thần mã" Nê Thông.
Vị hoàng đế yêu nước, thương dân
Duệ Tông hoàng đế (1337-1377) tên thật là Trần Kính, con thứ 11 của vua Trần Minh Tông, em trai vua Trần Nghệ Tông. Vì có công cứu giá, năm 1372 ông được vua Trần Nghệ Tông nhường ngôi và trở thành vị vua thứ 9 của nhà Trần. Trong thời gian trị vì của mình, vua Trần Duệ Tông đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc về tài năng, lòng quả cảm, ý thức tự lập, tự cường và giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc Đại Việt. Ông chủ trương chọn người thực tài phục vụ quốc gia, không đề cao yếu tố tôn thất, là vị hoàng đế yêu nước thương dân mẫu mực của nhà Trần. Những nho sĩ thời đó như Trạng nguyên Đào Sư Tích, Bảng nhãn Lê Hiến Phủ, Thám hoa Trần Đình Thám… đều xuất thân từ bình dân nhưng rất được coi trọng. Nhà vua còn rất chú trọng đến ý thức dân tộc, độc lập tự chủ của quốc gia. Vua hạ lệnh cho quân dân không được mặc áo, chải đầu kiểu người phương Bắc và không được bắt chước tiếng nói của nước Chiêm để bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc và thể hiện ý thức tự lập, tự cường.
Sinh thời, vua Trần Duệ Tông là con người mạnh mẽ, quyết đoán và sẵn sàng xả thân vì dân tộc. Lên ngôi trong bối cảnh đất nước thường xuyên bị đe dọa bởi các thế lực ngoại xâm, ông luôn coi trọng việc rèn binh, luyện mã, tổ chức quân đội. Bản thân ông cũng rất chú trọng tự rèn luyện võ nghệ, binh pháp và đặc biệt yêu thích cưỡi ngựa. Hàng ngày, vua đặc biệt quan tâm đến các chiến mã của mình. Nhiều lúc yết triều, vua không ngự ngai vàng mà cưỡi trên lưng ngựa nghe các cận thần bẩm báo. Ông sở hữu nhiều ngựa quý trong đó nổi bật nhất là con tuấn mã Nê Thông. Tên gọi “Nê Thông” bắt nguồn từ màu lông của con ngựa. “Nê” dùng để chỉ ngựa có hai màu lông trắng đen, còn “thông” là ngựa có sắc lông ánh xanh. Đây là hai sắc lông khá hiếm gặp ở các giống ngựa. Ngựa lông ánh xanh còn được coi là giống ngựa cực phẩm, hiếm có. Dựa vào màu sắc lông có thể phán đoán đây không phải là một con ngựa giống thuần chủng mà là một con ngựa lai. Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta, hàng ngàn con ngựa thiện chiến từ thảo nguyên Mông Cổ cũng được đưa vào Đại Việt. Lúc đám tàn quân Mông Cổ thất trận tháo chạy thoát thân thì số chiến mã này một số thì bị bắt, một số bị lạc trong rừng sau đó lai tạp với loài ngựa bản xứ. Có lẽ, Nê Thông là một sự kết hợp hoàn hảo giữa giống ngựa phương Bắc và phương Nam. Do đó, nó trở thành “thần mã” bậc nhất Đại Việt lúc bấy giờ của hoàng đế Duệ Tông.
Giai thoại về nàng Bích Châu
Cuộc đời của “ông Vua trên lưng ngựa” gắn liền với giai thoại nổi tiếng về một cung phi tên là Nguyễn Thị Bích Châu. Tương truyền, nàng là con quan đại thần họ Nguyễn. Nàng được cha mẹ nâng niu như châu ngọc, lưu ly nên đặt tên Nguyễn Thị Bích Châu. Lớn lên Bích Châu không những đẹp người, đẹp nết, mà còn rất đỗi thông minh, được cha mẹ dạy dỗ chu đáo. Vì vậy, khi mới 13 tuổi, Bích Châu đã thông thạo “Tứ Thư Ngũ Kinh”.
Năm Long Khánh thứ nhất (1373), nàng được vua Duệ Tông kén vào hậu cung. Nhân một vế đối của nàng (đối lại vế đối của vua) có chữ Phù dung, vua đặt tên hiệu cho là Phù Dung và rất yêu quý nàng. Thấy triều cương ngày càng sa sút, chính sự đổ nát, nhân tài không được trọng dụng, nịnh thần lộng hành… nên nàng đã tự mình thảo “Kê minh thập sách” dâng lên vua Trần Duệ Tông. “Kê minh thập sách” nghĩa là 10 kế sách trị nước, an dân dâng lên lúc gà gáy sáng. Đây là áng văn chính trị cổ xưa của nước ta, bao gồm những vấn đề trọng đại của đất nước trên cả ba lĩnh vực: Chính trị - Văn hóa - Quân sự. Có thể coi đó là đạo lý - kế sách dựng nước và giữ nước cho muôn đời. Sớ dâng lên vua, vua Trần thích lắm, đập tay vào phách mà rằng: “Không ngờ một người đàn bà lại thông tuệ đến thế, xứng là một quý phi tài ba của trẫm!”. Khi vua Trần Duệ Tông muốn cất quân đánh Chiêm Thành, nàng lại cùng Ngự sử Lê Tích hết sức can ngăn, vua vẫn không nghe, nàng bèn xin theo hầu.
Đoàn quân của vua Duệ Tông đi chinh phạt Chiêm Thành, khi đi qua Cửa Khẩu, Kỳ Hoa bỗng nhiên biển nổi sóng to, gió lớn, không tài nào tiến lên được. Đêm ấy, vua Duệ Tông mộng thấy một vị thần xưng là Nam Minh đô đốc, thủ hạ của Quảng Lợi đại vương, muốn xin vua ban cho một người thiếp, nếu được như ý nguyện, mới làm cho bể yên, sóng lặng để thuyền vua đi qua. Vua sợ hãi, vội cho đòi các quan tướng và phi tần đến chỗ ngự tẩm, kể lại giấc mơ. Khi các quan tướng chưa biết ứng đối thế nào, thì Bích Châu đã tình nguyện làm vật hiến tế giao thần để cứu ba quân. Nàng nhảy xuống biển, tự nhiên gió im, sóng lặng.
Chiến bào - lưng ngựa
Vượt qua cửa biển Kỳ Hoa, Duệ Tông cưỡi “thần mã” Nê Thông tiếp tục thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Đầu năm 1377, quân nhà Trần bao vây thành Đồ Bàn - kinh đô nước Chiêm Thành. Vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga lập kế tung tin mình đã bỏ trốn, chấp nhận mất thành, kỳ thực là bố trí phục binh chờ quân nhà Trần. Vua Duệ Tông trúng kế, khoác chiến bào màu đen, cưỡi trên lưng “thần mã” Nê Thông, ra lệnh tiến quân vào thành. Khi quân Đại Việt đến chân thành thì quân Chiêm từ 4 phía đổ ra đánh. Đại quân của vua Duệ Tông vỡ trận, bản thân vua bị trúng tên. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, vua ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Trời không phù ta, giá như ta nghe lời Bích Châu thì chiến mã Nê Thông không phải chịu chung số phận”.
Tương truyền 1 thế kỷ sau, khi vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành qua cửa biển Kỳ Hoa, nàng Bích Châu báo mộng xin nhà vua cứu giúp. Vua sai làm tờ điệp trách vua Thủy tề là Quảng Lợi vương, bắn ra biển. Vua Thủy Tề liền ra lệnh tróc nã giao thần. Thi hài nàng Bích Châu nổi lên mặt nước, vẫn như người nằm ngủ. Nhà vua sai làm lễ mai táng nàng ở bãi Bạch Tấn, lại sai lập đền thờ ở cửa biển và có sắc phong thần cho nàng. Sắc phong có hai chữ “Chế thắng” nên đền này được gọi là “Đền bà Chế thắng” (Chế thắng phu nhân từ).
Đền Chế thắng phu nhân ở làng Hải Khẩu, nay thuộc xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Gắn liền với giai thoại nổi tiếng về nàng Bích Châu, sự hy sinh anh dũng của vua Duệ Tông được đời đời khâm phục vì bản lĩnh, khí phách và lý tưởng chấn hưng dân tộc. Ông còn được người đời sau mệnh danh là “Ông vua trên lưng ngựa” bởi mối thâm duyên với “thần mã” Nê Thông.
Điều một: Bền gốc nước, trừ kẻ bạo thì dân chúng được yên.
Điều hai: Giữ nếp xưa, phiền nhiễu nên bỏ thì triều cương không rối.
Điều ba: Ngăn kẻ lạm quyền để trừ mọt nước.
Điều bốn: Loại bọn quan tham nhũng để bớt vơ vét của dân.
Điều năm: Mở lối nho phong để ngọn lửa đóm được soi cùng mặt trời mặt trăng.
Điều sáu: Tìm những lời trực gián để đường ngôn luận được rộng mở như cửa thành.
Điều bảy: Rèn luyện binh sĩ cần lấy hạng có dũng lực hơn là hạng vóc vạc lớn.
Điều tám: Chọn tướng trước nên lựa người thao lược sau mới đến là bậc thế gia.
Điều chín: Khí giới cốt tinh nhuệ hơn là lòe loẹt.
Điều mười: Tập trận pháp cần chỉnh tề không cần múa nhảy.
Ban dịch “Kê minh thập sách” |