Thứ Hai, ngày 15 tháng 12 năm 2025

Kể chuyện viết ký sự nhân vật - “Đại tướng Mai Chí Thọ”

Đồng chí Mai Chí Thọ - Quyền Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định cùng các chiến sĩ Ban An ninh Sài Gòn - Gia Định đã tham gia bảo vệ đồng chí từ khi ở căn cứ về lãnh đạo quần chúng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh (tháng 4/1975). (Nguồn: Ảnh tư liệu)

(Thanhuytphcm.vn) - Trong tôi có biết bao câu hỏi, bao điều phải khám phá. Là người viết văn, không phải viết chính trị, lý luận hay lịch sử, tôi phải tìm cho ra, gợi lại được ký ức của vị tướng bằng những câu chuyện đời, những tình cảm sâu lắng. Bởi với người đọc hôm nay, tôi phải là story teller - Người kể chuyện. Để cho chuyện đời tự đi trực tiếp vào xúc cảm của người đọc…

1. Tại sao tôi được viết ký sự về Đại tướng?

Do làm nghề báo gặp nhiều con người trên khắp đất nước có cuộc đời đặc biệt trong chiến tranh và xây dựng, tôi nghĩ rằng: Ghi danh công trạng và thành tựu đã có lịch sử và các ngành khoa học khác làm được, nhưng không ai có thể “đưa vào bảo tàng” tâm hồn họ. Phải cần đến văn học nghệ thuật.

Yêu thích và theo đuổi thể loại phi hư cấu (Nonfiction) vốn rất được coi trọng ở phương Tây, tôi chọn hình thức ký sự để tải hết chiều sâu nhân vật có thật, trong đó các thành tựu cuộc đời họ và bối cảnh lịch sử liên quan làm background - cái nền cho con người nổi bật lên với tính cách, suy nghĩ và hành động. Theo cách này, tôi đã viết được nhiều nhân vật, trong đó có Đại tướng Mai Chí Thọ.

Tôi muốn bạn đọc như được trò chuyện với họ vì tôi luôn viết dưới dạng những cuộc tiếp xúc trực tiếp với nhân vật trong nhiều năm khi họ còn sống, nghe họ kể những câu chuyện gay cấn và lý thú, xúc động, hoặc chuyện đời thường của họ phản ánh được thời đại và con người họ nhiều hơn cả.

Vào năm 2005, khi Đại tướng đã ngoài 80 tuổi và ông đang khó khăn về sức khỏe khi muốn tiếp tục viết một cuốn hồi ký về giai đoạn sau chiến tranh, là cuốn thứ 3 sau khi chính ông đã viết xong 2 cuốn hồi ký về hoạt động trong 2 cuộc chiến. Nay ông muốn dành cho cuốn 3 này nhiều tâm sự hơn với Thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh, nơi ông hoạt động hết chiến tranh rồi thời bình lại làm lãnh đạo ở vị trí trách nhiệm cao nhất - Bí thư, Chủ tịch, Giám đốc Công an trước khi ra Trung ương làm Bộ trưởng Bộ Công an, Ủy viên Trung ương Đảng nhiều khóa, Ủy viên Bộ Chính trị khóa VI.

Bấy nhiêu chức vụ, nhiệm vụ trong chiến tranh và hòa bình xây dựng, đổi mới -ông đã trải qua trong gần nửa thế kỷ. Cuộc đời ấy quá đồ sộ để viết sao phản ánh đầy đủ, sâu sắc và ấn tượng. Tôi được sự động viên giúp đỡ của gia đình nhà báo Nguyễn Thị Hằng Nga - người bạn thân thiết của tôi từ nhiều năm - chị là cháu ruột được Đại tướng nuôi như con đẻ.

Được sự đồng ý của Đại tướng, tôi bắt đầu thu thập tài liệu lịch sử liên quan. Tiếp đó quan trọng cực kỳ hơn nữa là tôi dành nhiều buổi nỗ lực phỏng vấn và trò chuyện lắng nghe trực tiếp - trên một phòng sân thượng trong ngôi nhà riêng của Đại tướng ở đường Phạm Ngọc Thạch, Quận 1, TPHCM.

2. Những câu chuyện chạm vào cảm xúc

Những thăng trầm gian truân ngày xưa chiến tranh ta đã nghe nhiều - nó diễn ra cụ thể thế nào trong đời ông? Hòa bình thống nhất nay nó chuyển hóa vào cuộc đời mới như thế nào ở một vị lãnh đạo TP lớn nhất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh và giờ mới được ra tiếp xúc trực tiếp với thế giới. Chất con người - tính cách hào hùng cao quý của một thế hệ anh hùng ấy - bộc lộ thế nào với cuộc sống hôm nay. Đó thực sự là một thách đố với người viết.

Trong tôi có biết bao câu hỏi, bao điều phải khám phá. Là người viết văn, không phải viết chính trị, lý luận hay lịch sử, tôi phải tìm cho ra, gợi lại được ký ức của vị tướng bằng những câu chuyện đời, những tình cảm sâu lắng. Bởi với người đọc hôm nay, tôi phải là story teller - Người kể chuyện. Để cho chuyện đời tự đi trực tiếp vào xúc cảm của người đọc.

Với người gần như cả đời “trôi dạt” vào phương Nam như thế, (“Chú cũng không biết mình còn bao nhiêu phần người Bắc nữa” - lời ông kể) vậy không biết quê hương trong ông thế nào. Quê ông ở Nam Định, gần Thái Bình - những tỉnh có người chết nạn đói năm 45 nhiều nhất - nhưng điều ám ảnh ông lại là… nỗi nhớ mẹ của chàng niên thiếu phải đi học xa nhà. Cứ về với mẹ đến ngày đi là nỗi nhớ ấy sống dậy và nào ngờ nó khắc vào lòng theo ông suốt đời. Nhất là khi trọ học ở Huế với những cơn mưa dầm thối đất cả tháng.

“Hình ảnh bà rất buồn. Đời bà nhiều đau khổ”. Ông kể về nỗi ân hận sau 15 năm xa cách, ông từ miền Nam được ra Bắc, đóng giả sĩ quan liên lạc đi máy bay địch ra Hà Nội làm việc với Trung ương, được ghé qua nhà: “Mẹ đang bệnh đau cột sống. Tôi mở mùng thấy mẹ ngồi nhìn thấy con, lặng lẽ khóc. Mình lại cố tỏ ra cứng rắn: “Mẹ đừng khóc. Con về là quý lắm rồi. Còn bao gia đình tan nát”. “Giờ nghĩ lại, dù đúng nhưng không ổn. Với người mẹ cả cuộc đời như thế… Bà luôn thương đứa trai út là tôi. Bà bảo: “Chỉ còn nó là chưa gặp. Gặp nó rồi chết cũng được…”.

Đồng chí Mai Chí Thọ, Phó Chủ tịch UBND Thành phố đọc diễn văn tại buổi mít tinh đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định là thành phố Hồ Chí Minh ngày 2/7/1976. (Nguồn: Ảnh tư liệu) Đồng chí Mai Chí Thọ, Phó Chủ tịch UBND Thành phố đọc diễn văn tại buổi mít tinh đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định là thành phố Hồ Chí Minh ngày 2/7/1976. (Nguồn: Ảnh tư liệu)

Bà đã mất 2 năm sau đó - mà cái tin mẹ mất cũng phải thêm 2 năm nữa ông mới nhận được ở Campuchia. Câu chuyện gia đình ông cho thấy những hy sinh, ly tán  của người Việt Nam trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thật là vô bờ bến.

Hỏi về quê hương thì ông kể chuyện về mẹ. Một người mẹ Việt Nam sinh ra các con có tới 3 người trong Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng - những lãnh đạo cao cấp của Việt Nam. Và bởi vì ông theo kháng chiến sống khắp nơi, nên quê hương ông trải ra khắp non sông này.

Trong cuốn ký sự, tôi có phỏng vấn một số chiến sỹ bảo vệ cùng đơn vị của Đại tướng để làm sống lại hình ảnh đoạn đời ông trong kháng chiến. Nói là bảo vệ một vị tướng nhưng thực chất là cùng ông sống trong rừng, đội mưa bom làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan đầu não, chết hụt bao phen. “Ông đi công tác bằng xuồng quanh vùng Cần Thơ, Phong Điền, Ô Môn, bị phục kích bắn, nay sẹo vẫn còn”. Câu chuyện kháng chiến thì nhiều lắm, ông kể cho nghe trực tiếp đánh trận Tua Hai, Mậu Thân 68 và chiến dịch Hồ Chí Minh, chuyện hoạt động nội thành xây dựng mạng lưới tình báo ở Sài Gòn...

Chúng ta đều biết lịch sử kháng chiến đã có những tên tuổi các nhà tình báo lớn thời kỳ này: Lê Hữu Thúy, Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo, Huỳnh Văn Trọng, Trần Quốc Hương, Phạm Xuân Ẩn… và mạng lưới mạnh mẽ hoạt động góp phần cho thắng lợi.

Bên cạnh các câu chuyện lớn, có chi tiết vui: Một người bị bắt không chịu nổi tra tấn khi địch bắt khai chỗ ở của ông Năm Xuân. Anh này không khai chỗ ở thật mà khai tránh ra một cơ sở nhà một bà mẹ, tưởng thế sẽ đánh động cho ông. Nào ngờ ông lại tìm về đúng nhà đó. Bà mẹ vừa bị tra tấn dã man không khai thấy ông thì hốt hoảng: “Trời ơi chú ơi, lính kín nó mai phục chờ chú cả tuần, vừa rút đi khoảng một tiếng. Chú ăn gì chưa, để tôi mua phở chú ăn”. Thương quá bà mẹ tốt bụng, nhưng bà không hiểu gì. Phải đi ngay chứ “phở phung gì nữa”.

Nhưng cuốn ký sự này phải nhắm đến phần hòa bình, làm lãnh đạo thành phố lớn nhất nước trong bao vây cấm vận, “cởi trói vượt rào xây dựng nền kinh tế đổi mới thoát bao cấp”, “giữ bình yên khỏi chống phá bên trong và kỳ thị của bên ngoài, đổi mới ngành công an” thì có những chuyện hay thế nào.

Câu chuyện “Vụ nhà thờ Vinh Sơn” đưa ta về với ngày mới thống nhất đất nước, tại Sài Gòn tình hình trật tự xã hội phức tạp, phản động nổi dậy lập ra các tổ chức vũ trang, lấy nhà thờ làm nơi ẩn nấp, in truyền đơn, làm bạc giả, dùng súng trung liên bắn trả quyết liệt khi bị vây.

Là giám đốc Công an giải quyết bạo loạn, ông Năm Xuân cho lực lượng vây bắt, đồng thời đề nghị lãnh đạo thành phố tổ chức cuộc họp báo cùng Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình và các chức sắc tôn giáo để hiểu rõ âm mưu địch và đoàn kết lương giáo, đoàn kết dân tộc gìn giữ an ninh, hòa bình.

Đại tướng kể: “Ngay lúc trời còn chạng vạng, súng bắn trên nhà thờ Vinh Sơn, tôi tới kêu vị linh mục ra nói ông truyền vào lệnh đầu hàng cho bọn phản loạn”. Trông tướng tá ông cao lớn, vị linh mục ngỡ đó là Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình tới liền: “Thưa cha bề trên”. Ông bảo: “Tôi không là linh mục Bình. Tôi bên Công an Thành phố”. Sau này ra Bắc nhận nhiệm vụ Bộ trưởng, ông đi thị sát các nhà tù nhiều nhất, kiểm tra phát hiện oan sai và đổi mới ngành Công an.

Trong nhiệm vụ Chủ tịch, Bí thư Thành ủy Thành phố thời khó nghèo bao cấp, các câu chuyện của ông làm sống lại thời kỳ sáng tạo, mạnh bạo “phá rào” của Thành phố tìm con đường xuất nhập khẩu giao thương với bên ngoài, ủng hộ các xí nghiệp dám làm, thời kỳ dẫn đến “Hội nghị Đà Lạt” có lãnh đạo cao nhất nước như các đồng chí Trường Chinh, Lê Duẩn lắng nghe, góp vào tiền đề của các chính sách Đổi mới Việt Nam.

Trong cuốn ký sự về Đại tướng có những chương “Một quyết định không giấy tờ” và các câu chuyện kể của nhà tư sản, các giám đốc xí nghiệp cùng sát cánh với lãnh đạo… Đây cũng là thời kỳ nhiều biến động lịch sử, việc sửa sai các chính sách kinh tế, việc thuyền nhân vượt biển, các chính sách cải tạo, quan điểm với phát triển kinh tế tư nhân và chương trình ra đi đoàn tụ… khiến Việt Nam và Sài Gòn thành điểm đến của báo chí thế giới. Vị chủ tịch Năm Xuân trả lời phỏng vấn  không né tránh nhiều gai góc và phải “đấu lý và giải thích” nhiều nhất. Lịch làm việc kín mít đến mức có lần ông phải hẹn trả lời phỏng vấn phóng viên nước ngoài vào lúc… 2 giờ đêm trong dịp lễ kỷ niệm 10 năm giải phóng.

Không chỉ là nhà lãnh đạo cao của thành phố với nhiều công việc, ông Năm Xuân còn là một nhà đối thoại, người hay đặt vấn đề - không mệt mỏi với rất nhiều tầng lớp, lý giải nhiều vấn đề khó. Ông thuộc thế hệ lãnh đạo thời đó như Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, thân với nhiều giới như các doanh nhân, kể cả tư sản người Hoa Chợ Lớn. Ông “đem theo” cả các nhân vật kinh doanh đi cùng các chuyến tham quan, làm việc ở nước ngoài. Nhiều trí thức lớn tranh cãi tìm hiểu chế độ, ra đi rồi vẫn viết thư hỏi ý kiến ông. Kể cả những người dân được nhờ chính sách mà lấy lại được nhà cửa, giải quyết được hộ khẩu trong thời khó khăn.

Có lần tiếp xúc với các giới tôn giáo, chịu khó trả lời cả những câu hỏi chưa hiểu gì người cán bộ Cộng sản “dễ đụng chạm” như một vị trong tôn giáo hỏi: “Tôi thấy ông là người đôn hậu, sao ông lại làm…công an?”. Đó là chưa kể những tranh cãi về chủ nghĩa xã hội, các đường lối chính sách, và đối nhân xử thế… kể cả những sai lầm do tình hình ấu trĩ của đất nước đứng trước nhiều phức tạp.

Với tư cách một lãnh đạo, có khi là người đồng chí, khi ở cương vị cao, ông bỏ ra nhiều thời gian để gặp gỡ trò chuyện nhiều ngày tranh luận và thuyết phục ngay cả một số người có công trong kháng chiến sau thành đối lập không thông quan điểm đã đi đến chống đối. Ông có niềm tin mãnh liệt vào sự chân thành có thể cảm hóa và giải tỏa các khác biệt. Vì thế các tầng lớp đều có những người thích được hỏi và thảo luận nhiều việc của cá nhân mình và trở thành bạn thân thiết tin cậy.

Chính vì cả một đời lăn lộn vào sinh ra tử trong chiến tranh, giải quyết bao khó khăn cùng đất nước trong thời bình gắn bó nhân dân mà những cái tên gọi kiểu Nam bộ như “ông Năm Xuân, Mười Cúc, Sáu Dân, Hai Hùng, Sáu Tường, Năm Nghị, Mười Hương”… trở nên một thế hệ lãnh đạo rất thân thiết dân dã và tin cậy.

Nguyễn Thị Ngọc Hải


Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo