Người thường
nhắc nhở: Nói cái gì phải cho dân tin - nói và làm phải nhất quán. Với
quan niệm đó, trong suốt cuộc đời mình, Người đã thực hiện một cách
nghiêm túc và đầy đủ nói đi đôi với làm. Sức thuyết phục mạnh mẽ trong
tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là ở chỗ, nói luôn đi đôi với làm, dù
việc lớn hay việc nhỏ, tự mình phải làm gương trước. Tấm gương nói đi
đôi với làm của Hồ Chí Minh, bắt nguồn từ quan niệm của Người, từ lòng
dạ trong sáng, chính tâm, thật sự nêu gương của Người. Phẩm chất nói đi
đôi với làm Người đã dạy chúng ta về lẽ sống “thật”, đối lập với giả,
với dối.
Trong cuộc
đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh có biết bao câu chuyện cảm động về việc nêu
gương, nói đi đôi với làm, tự mình làm trước.
Xuất phát từ
truyền thống yêu nước của quê hương, gia đình, chứng kiến cuộc sống khổ
cực của nhân dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp, người thanh niên
Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.
Trước khi đi, anh tâm sự với người bạn của mình: “Tôi muốn ra nước
ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm ăn như thế
nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra
cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm…Anh muốn đi với tôi không? Khi
người bạn hỏi lấy tiền đâu mà đi, anh Thành vừa nói, vừa giơ hai bàn
tay: “Đây, tiền đây… Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc
gì để sống và để đi”(1).
Câu nói là sự thể hiện quyết tâm và cũng
là lời hứa của Người trước vận mệnh dân tộc mình. Với hai bàn tay trắng
và lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, 5-6-1911, chàng trai xứ Nghệ Nguyễn
Tất Thành 21 tuổi đã vượt đại dương với nghề phụ bếp trên tàu để đi khắp
năm châu bốn biển, tự kiếm sống, học tập với hoài bão tìm ra con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc. Thực tiễn đã chứng minh Người đã làm đúng
như những gì Người đã nói. Sau 30 năm bôn ba đặt chân đến gần 30 nước,
ngày 28-1-1941, Người trở về Tổ quốc trực tiếp cùng Đảng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam.
Khi nước nhà mới giành độc lập 1945, cách mạng
Việt Nam đứng trước muôn vàn khó khăn “thù trong, giặc ngoài”, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng đã đưa ra những chủ trương hết sức đúng đắn, kịp
thời đẩy lùi những khó khăn. Để giải quyết nạn đói trên miền Bắc, Người
đề nghị toàn dân tiết kiệm gạo để giúp đồng bào bị đói, và Người mẫu mực
thực hiện trước: “Lúc chúng ta mang bát cơm lên mà ăn, nghĩ đến kẻ đói
khổ chúng ta không khỏi động lòng, vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả
nước và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăm một bữa, mỗi tháng
nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”(2).
Nói
đi đôi với làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện rất nghiêm túc, mặc
dù lúc này sức khỏe Người giảm sút do trải qua trận ốm nặng. Các đồng
chí từng phục vụ bên Người kể lại rằng, một lần tướng Tiêu Văn của Quân
đội Tưởng Giới Thạch mời Người dự chiêu đãi. Hôm đó, đúng vào bữa cơ
quan nhịn ăn để góp gạo cứu đói, mặc dù các đồng chí phục vụ đã báo cáo
phần gạo của Người đã cho vào hũ gạo cứu đói rồi, nhưng Người vẫn quyết
định “nhịn ăn một bữa” vào ngày hôm sau.
Năm 1946, để tăng cường
sức khỏe cho nhân dân, Bác kêu gọi toàn dân tập thể dục. Bản thân Người
là tấm gương “Tự tôi ngày nào cũng tập”(3).
Chủ tịch Hồ Chí Minh
thường dạy đảng viên, nhân dân phải thực hành tiết kiệm: tiết kiệm sức
lao động, thì giờ, tiền bạc, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không bừa
bãi, phô trương hình thức. Bản thân Người đã luôn thực hiện đời sống
thanh bạch từ ăn, ở đến các phương tiện sử dụng phục vụ công việc hàng
ngày. Đồ dùng cá nhân của Người cũng rất giản dị và tiết kiệm.
15
năm cuối đời, Bác sống ở Phủ Chủ tịch, khi đó kinh tế còn khó khăn, đời
sống nhân dân còn thiếu thốn. Bác yêu cầu: Chiều thứ bảy hằng tuần cho
Bác ăn cháo để bớt phần gạo cho dân và đề nghị với nhà bếp, cán bộ, nhân
dân ăn cơm độn ngô, khoai, sắn bao nhiêu phần trăm thì độn cho Bác bấy
nhiêu phần trăm. Bữa ăn của Bác thanh đạm như bữa ăn của bao gia đình
người dân: bát canh, quả cà, vài lát thịt kho. Khi ăn cơm, Bác không bao
giờ để rơi một hạt cơm, vì Người biết một hạt cơm là một giọt mồ hôi
của người dân. Cố thủ tướng Phạm văn Đồng nói: ăn cơm với Cụ hàng trăm
lần, lần nào cũng thấy Cụ tém vén không để rơi một hạt nào. Bởi Cụ quý
và tiết kiệm sức lao động của người làm ra lúa gạo.
Về thăm các
địa phương, Người thường không báo trước. Có lần Bác đến thăm công trình
thủy lợi Bắc- Hưng - Hải, buổi trưa Tỉnh ủy có mời Bác ăn cơm trưa. Ít
ngày sau, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hoàng Anh phụ trách công tác tài chính
đến báo cáo công việc với Bác. Sau khi báo cáo xong, đồng chí có nói
chuyện riêng với đồng chí Vũ Kỳ - Thư ký giúp việc cho Bác, đồng chí đã
hỏi: Có phải hôm Bác về thăm tỉnh ấy, có thịt bò chiêu đãi? Nghe được
câu chuyện giữa đồng chí Hoàng Anh với đồng chí Thư ký. Bác nói với đồng
chí Hoàng Anh: Thế thì chú quyết toán cho họ. Vài ngày sau đó khi đi
công tác, Bác dặn đồng chí giúp việc chuẩn bị cơm nắm muối vừng mang
theo để tránh đón rước linh đình, phiền hà, tốn kém thời giờ và tiền bạc
của nhân dân. Tránh tình trạng như hôm ta về thăm tỉnh, họ quyết toán
chiêu đãi Bác cả con bò, điều người này, người khác sang chuẩn bị cả
buổi. Thế là tự Bác bao che cho chuyện xôi thịt - mà xôi thịt đấy là sự
đóng góp của dân mà có.
Về nơi ở, sau khi cuộc kháng chiến chống
Pháp thắng lợi, từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội, Người không ở
căn nhà to lớn của viên toàn quyền Đông Dương, mà chọn ở ngôi nhà của
người công nhân thợ điện. Ngôi nhà mà Đảng, Chính phủ định mời Bác ở,
Bác nói dành làm nơi đón, tiếp các đoàn khách sang thăm Việt Nam vì nước
ta còn nghèo, một mình Bác ở nhà to rất lãng phí. Mùa hè, Miền Bắc oi
bức, nhưng Bác chỉ dùng quạt lá cọ để “dành điện phục vụ cho sản xuất,
phục vụ sinh hoạt cho nhân dân”. Thương Bác, các đồng chí cán bộ ngoại
giao gửi biếu Bác chiếc điều hòa nhiệt độ, nhưng Người không dùng mà đề
nghị chuyển chiếc điều hòa ấy cho các đồng chí thương, bệnh binh đang
điều trị tại trại điều dưỡng hoặc quân y viện, là những người, những nơi
cần hơn.
Về mặc, Người ăn mặc cũng rất giản dị. Mùa đông, Bác Hồ
có một cái áo bông của đồng bào biếu Bác, vì dùng nhiều năm nên mền
bông bẹp xuống, không còn ấm nữa, nhưng không ai dám nghĩ đến việc xin
Bác bỏ mền bông đi, chỉ nghĩ đến việc thay vỏ ngoài. Vì dùng mãi vỏ áo
đã đứt chỉ ở khuỷu tay và ở cổ, Bác bảo mang áo lại. Nó rách ở vai thì
Bác bảo vá vai, đến khi nó rách hai lần, đồng chí phục vụ xin Bác cho
thay vỏ ngoài. Bác bảo: “Này, chú ạ, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước mặc áo
vá vai thế này là cái phúc lớn của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”(4).
Xúc động hơn cả là bản Di chúc lịch sử Bác để lại cho toàn
Đảng, toàn dân trước lúc đi xa cũng được viết ở mặt sau của một tờ bản
tin cũ để tiết kiệm giấy.
Không chỉ tiết kiệm trong lối sống của
bản thân, ngay cả trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng quan tâm làm sao tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời gian.
Những năm tháng sống trên chiến khu Việt Bắc, tổ công tác đi theo Bác
chỉ có ít người nhưng kiêm mọi công việc. Cách mạng Tháng Tám thành
công, trở về Thủ đô nhưng các đồng chí phục vụ Bác ở Phủ Chủ tịch cũng
rất ít. Những khi đi công tác xa, Bác thường tạo điều kiện để các đồng
chí phục vụ được tranh thủ về thăm gia đình.
Chủ tịch Hồ Chí
Minh khuyên mọi người sống trong sạch, không ham tiền tài, danh vọng,
không cậy quyền thế mà đục khoét của dân. Cuộc sống giản dị, trong sạch
của Người thật sự là tấm gương sống để cán bộ, đảng viên, nhất là những
người có chức, có quyền phải tự soi lại mình.
Nhân dân tỉnh Thái
Bình gửi biếu Bác 2 chai nước mắm, Bác san sẻ quà đó với người khác cùng
hưởng; hay khi nhận được món quà là hộp mật ong khô rất quý nhưng Người
kiên quyết không giữ lại dùng riêng mà yêu cầu đồng chí cấp dưỡng đem
nấu chè cho mọi người cùng thưởng thức. Đặc biệt, trong một lần, Người
sang thăm Liên Xô, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô gửi tới Bác
4.000 rúp, đồng chí thư ký của Bác 1.000 rúp. Nhưng trước khi rời
Mat-xcơ-va, Người đã gửi lại Ủy ban Trung ương Đảng Liên Xô 5.000 rúp
đó.
Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải tin yêu, quý
trọng con người, phải kính già yêu trẻ và Người là tấm gương mẫu mực về
điều đó. Trong những năm tháng giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, cả
nước sống trong không khí khẩn trương, sẵn sàng chiến đấu. Giữa trời hè
nóng nực, khi xe đưa Bác đi công tác về qua Quảng trường Ba Đình, nhìn
lên nóc nhà hội trường Ba Đình, thấy các đồng chí bộ đội phòng không
đang trực chiến trên mâm pháo dưới cái nắng hầm hập, Bác rất thương anh
em. Ngay sau đó, Người quyết định dành toàn bộ số tiền nhuận bút của
mình bấy lâu trong sổ tiết kiệm gửi Bộ Quốc phòng chuyển tặng các chiên
sỹ phòng không để mua nước giải khát...
Thời gian trôi qua,
những câu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về “nói đi đôi với
làm” vẫn còn vẹn nguyên. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là tấm gương sáng chói
cho mọi thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thanh niên học tập và noi
theo.
---------------
(1) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện
về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1970,
tr.10.(2) Hồ Chí Minh: toàn tập, Sdd, tập 4, tr.33.(3) Hồ Chí Minh: toàn
tập, Sdd, tập 4, tr.241.(4) Trần Viết Hoàn: Đạo đức Bác Hồ tấm gương
soi cho muôn đời. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.272.